Sưu tra, nghiên cứu và thực hành phổ hệ

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

.:':. NGUYỄN HỮU TỘC PHỔ

                       

(Tờ 1, dòng 1) 靖國公阮有鎰世系
Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật thế hệ
(Thế  hệ dòng dõi Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật giữa các tông phái kế thừa nhau)

(Dòng 2) 苗裔阮有篹承奉先啟後
Miêu duệ Nguyễn Hữu Toản thừa phụng tiên khải hậu
(Con cháu đời sau Nguyễn Hữu Toản vâng lệnh thừa kế đời trước tiếp tục truyền lại)

(Dòng 1.1.2.3, phần dưới) 下一代阮有寶南恭錄己丑年九月十五日
Hạ nhất đại Nguyễn Hữu Bảo Nam cung lục Kỷ Mão niên, cửu nguyệt thập ngũ nhật.
(Thế hệ sau Nguyễn Hữu Bảo Nam kính cẩn sao chép bằng máy vi tính ngày hoàn thành ngày 15 tháng 9 năm 2009.)

(Dòng 3, Chữ trung tâm) 阮有族譜
NGUYỄN HỮU TỘC PHẢ
(Phả Tộc Nguyễn Hữu - Gia Viễn)

(Dòng 4&5)寧評省 家遠縣 家兴社 華仙村 峝華閭處
Ninh bình tỉnh Gia viễn huyện Gia hưng xã Hoa tiên thôn Động hoa lư xứ
(Xứ Động Hoa Lư, thôn Hoa Tiên, xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình)

(Tờ 2)                LỜI MỞ ĐẦU
Toàn bộ cuốn phú uý này là lược sử của dòng họ Nguyễn Hữu vì khi nó hoàn chỉnh sẽ phản ánh toàn diện thấu đáo và sâu sắc đến hết thảy vốn có của dòng họ Nguyễn Hữu cũng như lịch sử nhân dân đã được phản ánh chính từng cá nhân thuộc gia đình cùng huyết thống đã tạo nên dòng tộc. Vậy như sách bách tính thì “ tất cả các dòng tộc tạo thành một thực thể là đồng bào”. 

Với tình cảm ý thức, nhận thức của chúng ta từ các ngài Thủy Tổ đến Hậu Tổ và xuống đến Hậu Duệ là đã trải qua hàng trăm, hàng nghìn năm nay. Dòng họ ta có rất nhiều bộ sách, phú uý, gia phả, ngọc phả, tộc phả, thế phả, kim phả, ... Đã ghi chép đầy đủ người chết và người sống, trong họ tộc có bao nhiêu người, tên họ, ngày, tháng, năm sinh, mất, nơi chôn cất, hình thái, vóc dáng công tính và tính chất từng người. 

Dòng tộc Nguyễn Hữu chúng ta mong rằng con cháu luôn nhớ và hiểu tường tận rằng " Nếu dòng tộc họ nào không có phả đó chính là bị khuyết nó khác hẳn với có phả vì chúng ta trước hết thấy rất rõ ràng là dòng họ không có phả họ sẽ không thể nào hình dung được hoặc không thể nào phát huy được đúng truyền thống bản năng đã có từ chính dòng họ của mình, thậm chí họ coi những việc thiêng liêng của chúng ta giống như hiện tượng thiên tính. 

(Tờ 3)
Còn chúng ta, dòng tộc chúng ta thì sao? Về tâm lý dòng tộc chúng ta đã lưu truyền được phả nên chúng ta sẽ tự tin hơn, đường hoàng sống trong dòng tộc và khi tiếp xúc với xã hội. Ngoài ra chúng ta phát huy được bản năng vốn có của dòng tộc Nguyễn Hữu. 

Hơn nữa là năng lực cá nhân thấy cả tổ tiên điển hình như chi Nguyễn Hữu Hào có ông nội ta Nguyễn Hữu Nhởn ở Bình Phước hậu duệ đời thứ 10 và tôi Nguyễn Hữu Bảo Nam ở Sài Gòn đời thứ 12 và chi Nguyễn Hữu Cảnh có chú của ta Nguyễn Hữu Tiến ở Quảng Bình đời thứ 11, chú Nguyễn Hữu Ứng ở Khánh Hòa đời thứ 11 Hậu Tổ Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật  đều được tổ tiên báo mộng và thông hiểu rất nhiều mà dòng tộc ta gọi là căn cơ. Nhất là trong hoàn cảnh khó khăn với thử thách cao dòng tộc Nguyễn Hữu luôn có sự trân trọng và đáng kính sẽ cao hơn. 

" Con người có gốc sẽ khác xa với con người mất gốc hoặc chưa biết nguồn gốc". Chúng ta dựa vào sự phát triển của dòng tộc để tự hào hơn, tự tin hơn vì đây thuộc quy luật phát triển con người “ Hữu thỉ vô chung, tiếp nối mãi mãi"!
Nguyễn Hữu Bảo Nam 
Phòng Tĩnh Quốc Công
- Tộc Nguyễn Hữu - Gia Viễn
Email: khoinguyenduong@gmail.com
......                         
                               PHẢ KÝ
(Tờ 4, dòng 1) 家之有諾猶國之有史所以正尊派辦親踈而明世系也
Gia chi hữu phổ do quốc chi hữu sử sở dĩ chính tôn phái biện thân sơ nhi minh thế hệ dã.
(Nước Có sử thì nhà có gia phả, nhờ vậy mới chấn chỉnh được tôn phái, chỉ ra từng mối quan hệ bà con, để xác lập các thế hệ vậy.)

( Dòng 2) 余先人本清化, 河中府, 宋山縣, 上畔総, 嘉苗外庄, 貴鄊人
Dư tiên nhân bản Thanh Hóa, hà trung phủ, tống sơn huyện, thượng bạn tổng, gia miêu ngoại trang, quý hương nhân. 
(Tổ tiên ta gốc người trang Gia Miêu Ngoại, làng Quý, tổng Thượng Bạn huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.)

(Dòng 3) 於棃朝該縣人多㗰太祖嘉收皇帝入镇顺化
Ư Lê Triều cai huyện nhân đa tùng Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế nhập trấn Thuận Hóa. 
(Vào thời Lê Trung hưng nhiều người trong huyện theo vua Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế vào trấn Thuận Hóa.)

(Dòng 4) 田土三十畝立, 為朝尊社地分以便該縣人居住. 蒙勅賜割仙嫩戊林等社, 
điền thổ tam thập mẫu lập, vi triều tôn xã địa phận dĩ tiên cai huyện nhân cư trú. Mông sắc tứ cát tiên nộn Mậu Lâm đẳng xã, 
(được ban cấp cho vùng đất rộng 30 mẫu tại các xã Cát Tiên Nộn và Mậu Lâm lập thành xã Triều Tôn để cư ngụ.)

(Dòng 5) 余先祖亦右揷入該社傳至余
Dư Tiên Tổ diệc hữu sáp nhập cai xã truyền chí dư 
(Ông tổ ta cũng nhập vào xã ấy, truyền đến...)

#Ghi chú: Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế: Nguyễn Hoàng, con thứ Nguyễn Kim, vào trấn thủ đất Thuận Hóa năm 1556, giờ những người họ hàng ở huyện Tổng Sơn cùng những quân lính ở đất Thanh Nghệ, nhiều người đưa cả vợ theo đi, Nguyễn Hoàng vào động ở xã Ái Tử, huyện Đang Xương, tỉnh Quảng Trị và mở ra sự nghiệp các chúa Nguyễn Ở Đàng Trong về sau. 
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long truy phong cho Nguyễn Hoàng là Thái Tổ Gia dũ hoàng đế.

(Tờ 5, dòng 1) 太皇后船團来京扵瞻拜之日態朝阮樱重病肩輿囬家旬日析世
Thái Hoàng Hậu thuyền đoàn lai kinh ư chiêm bái chi nhật thái triều Nguyễn anh trọng bệnh kiên dư hồi gia tuần nhật chiết thể. 
(Đoàn thuyền Thái hậu đến kinh đô Hôm dự lễ chiêm bái, ông nội ta mắc phải bệnh nặng, nằm cáng về nhà, mười ngày sau thì qua đời.)

(Dòng 2) 扵臨終之辰迻燭曰 "我本朝竫国公阮有鎰公之後. 
Ư lâm chung ư thời di chúc viết " Ngã Bản Triều Tĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Dật Công Chi Hậu. 
(Ông nội ta khi lâm chung di chúc rằng: “Ta vốn là hậu duệ của Tinh Quốc Công Nguyễn Hữu Dật triệu chủ trước.)

(Dòng 3) 筌政侯長子仍兵火之餘墓幩失洛無從計究
Thuyên chính Hầu trưởng tử. Nhưng binh hỏa chi dư gia phổ, mộ phần thất lạc vô tòng kê cứu. 
(Thuyên Chính Hầu con trưởng. Nhưng vì binh hỏa chiến tranh, gia phả mộ phần tổ tiên thất lạc không thể kê cứu.)

(Dòng 4) 余先考生下, 
Dư tiên khảo sinh hạ, 
(Cha ta sinh ra)

(Dòng 5) 余兄弟五六人及余長成朝尊社人因兵革漂数未見囬復用土地, 
dư huynh đệ ngũ lục nhân cập dư trường thành triều tôn xã nhân nhận binh cách phiêu sổ vị kiến hồi phục vùng thổ địa 
(anh em ta năm sáu người, đến khi ra trưởng thành vì chiến tranh nên anh em ta phải rời khỏi xã Triều Tôn phiêu tán chưa có thể trở về)

(Tờ 6, dòng 6) 亦于他社所占余籍入楊春社以便應試, 
diệc vu tha xã sở chiếm dư tịch nhập dương xuân xã dĩ tiện ứng thí, 
(Ruộng đất cũng bị người khác chiếm mất. Ta nhập tịch xã Dương Xuân để tiện ứng thí.)

(Dòng 7) 余先考所述如此余三世祖以前在煙宓無可奈何述其所聞其, 所見以侯查訪
dư tiên khảo sở thuật như thử, dư tam thế tổ dĩ tiền tại yên mật vô khả nại hà thuật kỳ sở văn kỳ sở kiến dĩ hầu tra phỏng. 
(Theo lời cha ta kể lại thì những ghi chép cách ba đời về trước đã thất lạc cả không thể khôi phục lại được. Nay ta thuật lại những gì đã nghe được, thấy được để con cháu sau này có thể tra cứu.)

(Dòng 8) 静齊雙峯主人阮國瑞甫謹識
Tĩnh trai song phong chủ nhân Nguyễn quốc thụy phủ cẩn thức. 
(Song Phong chủ nhân, Tĩnh trai Nguyễn Quốc Thụy Phủ cẩn thức)

#Ghi chú: Thái hậu tức Hưng Tổ Hiểu Khang hoàng hậu NGUYỄN THỊ HOÀN. Khi quán Tranh  Phú Xuân bà lánh ở làng An Du Năm Kỷ Hợi (1779) về Phú Xuân tôn làm Quốc Mẫu Năm (1801).

(Tờ 7, dòng 1) 保大十六年九月十五日渻辖會员阮有全奉修阮有族尊图家譜
Bảo Đại thập lục niên cửu nguyệt thập ngũ nhật tỉnh hạt hội viên Nguyễn Hữu Toàn phụng tu Nguyễn Hữu Tộc Tôn Đồ Gia Phổ.
(Ngày 15 tháng 9 niên hiệu Bảo Đại năm thứ mười sáu, chức vụ Hội viện tỉnh hạt Nguyễn Hữu Toàn vâng lệnh tu chỉnh gia phả).

(Dòng 2) 家之有諾猶國之有史所以正尊派辦親踈而明世系也. 
Gia chi hữu phổ do quốc chi hữu sử sở dĩ chính tôn phái biện thân sơ nhi minh thế hệ dã.
(Nước có sử thì nhà có gia phả, nhờ vậy mới chấn chỉnh được tôn phái, chỉ rõ từng mối quan hệ bà con, để xác lập các thế hệ vậy,

(Dòng 3) 我本丁朝阮匐定国公之後. 
Ngã bản Đinh triều Nguyễn Bặc Định quốc công chi hậu. 
(Dòng họ ta kể từ Định Quốc công Nguyễn Bặc triều nhà Định trở về sau)

(Dòng 4) 自丁棃李陳棃多為公臣名相青史留方.
Tự Đinh Lê Lý Trần Lê đa vi công thần, danh tướng thanh sử lưu phương. 
(trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê nhiều người là công thần danh tướng, lưu tiếng thơm sử sách)

(, Dòng 5) 至陳末
Chí Trần mạt
(Cho đến cuối triều Trần)

(Dòng 6) 世世子孫爲名将, 至棃後棄数将終
Thế thế tử tôn vi danh tướng, chí lê hậu khí số tương chung.
(Con cháu ông thủy tổ đều là danh tướng cả, đến khi khi số nhà Lê sắp hết)

(Dòng 7) 幕氏篡逆, 鄭氏専権我
Mạc thị soán nghịch. Trịnh thị chuyên quyền ngã
(họ Mạc cướp ngôi, họ Trịnh chuyển quyền.)

#Ghi chú: Phần phả ký trích "Tờ 1,2,3 Phần phả ký - Cung Lục Nguyễn Hữu Tông Gia Phả - Chi thứ 5 Phan  Long Hầu:  Phòng Vị Quốc Công Hào Lương Hầu Nguyễn Hữu Hào tự Bảng. Phần thượng phả sao chép gia phả chữ hán tự sai tên tự của tổ Nguyễn Biện tự Tiến (ghi thủy  tổ Nguyễn Trãi từ đó bị sai lệch 2 thế hệ.

(Tờ 8)                    PHẢ HỆ
我家本支百世原留甚遠世世功臣名相青史留肪
第一世祖為衙相諱阮爍 似福
 十月十四終 墓在崋閭峝 大皇洲
正配衙相夫人 諱名㭍祥
生下正总以下三人
長男驸馬丁朝諱阮匍
二男諱阮復
三男諱阮匐
Ngã gia bản chi bách thế nguyên lưu thậm viễn thế thế công thần danh tướng thanh sử lưu phương tự Đệ Nhất Thế Tổ Vi Nha Tướng húy  Nguyễn Thước tự Phúc, thập nguyệt thập tứ nhật chung Mộ tại hoa lư động, Đại Hoàng châu.
Chính phối Nha Tướng Phu Nhân húy danh tự thất tường.
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ tam nhân
Trưởng nam Phò Mã Đinh Triều húy Nguyễn Bồ
Nhị nam húy Nguyễn Phục
Tam nam húy Nguyễn Bặc.

第二世祖丁朝有公為太宰定國公諱阮匐 
十月十五日終 墓麒麟山 清化外使 大皇洲
正配定國公夫人諱名㭍祥
生下正总以下二人
長男右殿前指揮使 都效瞼諱阮氐
二男諱阮達 自代 (阮峋 - 甜厙)
衙祖阮爍之弟三子
Đệ Nhị Thế Tổ Đinh Triều hữu công vi Thái Tể Định Quốc Công húy Nguyễn Bặc.
Thập nguyệt thập ngũ nhật chung.
Mộ Kỳ Lân sơn Thanh hoa ngoại sứ Đại Hoàng châu.
Chính phối Thái Tể Định Quốc Phu Nhân húy danh tự thất tường.
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ nhị nhân.
Trưởng nam Hữu điện tiền Chỉ huy sứ Đô Hiệu Kiểm húy Nguyễn Đê 
Nhị nam húy Nguyễn Đạt, tự Đại, tức Nguyễn Tuân Điềm xá.
" Nha Tướng Nguyễn Thước Chi Đệ Tam Tử".

(Tờ 9)
第三世祖犂朝有公為右親衛 殿前 指揮使 李朝有公為都校檢削侯諱阮氐 即弟
正配都校檢夫人諱名㭍祥
生下正总以下三人
長男和國公諱阮光利生員外郎諱阮義 生兵部尚書諱阮國 生諱阮公 生進士諱阮界
二男左相國諱阮遠
三男太寳諱阮福歷生太寳諱阮揚 生諱阮公 生諱阮龍 阮賢尚書部刑阮詮 (韓詮) 生諱阮會
太宰 定國公阮匐之長子
Đệ Tam Thế Tổ phù Lê Triều hữu công vi Hữu Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Phù Lý Triều hữu công vi Đô Hiệu Kiểm, tước Hầu húy Nguyễn Đê, tức Đệ
Chính phối Đô Hiệu Kiểm Phu Nhân danh tự thất tường.
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ tam nhân
Trưởng nam Hoà Quốc Công húy Nguyễn Quang Lợi sinh Viên Ngoại Lang húy Nguyễn Nghĩa, sinh Binh Bộ Thượng Thư Nguyễn Quốc sinh Nguyễn Công sinh Tiến Sĩ Nguyễn Giới.
Nhị nam Tả Tướng Quốc húy Nguyễn Viễn 
Tam nam Thái Bảo húy Nguyễn Phúc Lịch sinh Thái Bảo húy Nguyễn Dương sinh Nguyễn Công sinh Nguyễn Long, Nguyễn Hiền, Thượng thư bộ hình Nguyễn Thuyên tức Hàn Thuyên sinh Nguyễn Hội.
" Thái Tể Định Quốc Công Chi Trưởng Tử".

第四世祖李朝有公為左相國諱阮遠
正配左相國夫人諱名㭍祥
都校檢阮氐之弟二子
Đệ Tứ Thế Tổ Phù Lý Triều Hữu Công Vi Tả Tướng Quốc húy Nguyễn Viễn 
Chính phối Tả Tướng Quốc Phu Nhân danh tự thất tường.
" Đô Hiệu Kiểm Nguyễn Đê Chi đệ nhị Tử".

(Tờ 10)
第五世祖李朝有公為左都督諱阮奉 庚午年終
正配左都督夫人 諱名㭍祥
左相國阮遠之長子
Đệ Ngũ Thế Tổ phù Lý Triều Hữu Công Vi Tả Đô Đốc húy Nguyễn Phụng Canh Ngọ niên chung.
Chính phối Tả Đô Đốc Phu Nhân danh tự thất tường.
" Tả Tướng Quốc Nguyễn Viễn Chi Trưởng Tử".

KỲ THÚY GIỚI DUY CHỦ KÝ TÁI LAI LỊCH BẤT NHẤT NGHI DĨ TRUYỀN NGHI BÁCH

第六世祖陳朝有公為淮道孝嫵大勝王諱阮嫩 稱大勝王 己丑年, 三月㭍祥日終
正配大勝王夫人諱名㭍祥
正配世一淮道孝嫵大勝王夫人諱陳是玩蟾
生下正总以下五人
長男都效瞼諱阮世賜
二男太付諱阮龍
三男諱阮賢
四男左督管君聖杙義慂 諱阮識
五男員外郎 諱阮演
Đệ Lục Thế Tổ Trần Triều Hữu Công Vi Hoài Đạo Hiếu Vũ Đại Thắng Vương húy Nguyễn Nộn tự Đại Thắng Vương. 
Kỷ sửu niên, tam nguyệt thất tường nhật chung. Hoài Do Thần Đình tự, phong Tối Linh Thượng Đẳng Thần.
Chính phối Đại Thắng Vương phu nhân danh tự thất tường.
Chính thất thứ nhất Hoài Đạo Hiếu Vũ Đại Thắng Vương Phu Nhân húy Trần Thị Ngoạn Thiềm.
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ ngũ nhân.
Trưởng nam Đô Hiệu Kiểm húy Nguyễn Thế Tứ.
Nhị nam Thái Phó húy Nguyễn Long.
Tam nam húy Nguyễn Hiền.
Tứ nam Tả Đốc Quản Quân Thánh Dực Nghĩa Dũng húy Nguyễn Thức.
Ngũ nam Viên Ngoại Lang húy Nguyễn Diễn.

(Tờ 11)
第七世祖陳朝有公為都效瞼諱阮世賜 
正配都效瞼夫人諱名㭍祥
生下正总以下七人
長男平蠻大相軍 諱阮納和
二男陳朝有公為鎮守府京北 風太傅參夂正事 耿郡公 諱阮耿
淮道孝嫵大勝王阮嫩之長子
Đệ Thất Thế Tổ Phù Trần Triều Hữu Công Vi Đô Hiệu Kiểm húy Nguyễn Thế Tứ
Chính phối Đô Hiệu Kiểm Phu Nhân húy danh tự thất tường 
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ thất nhân, 
Trưởng nam Bình Man Đại Tướng Quân húy Nguyễn Nạp Hoà
Nhị nam Trần triều hữu công vi trấn thủ phủ kinh bắc Phong Thái phó tham tri chính sự Cảnh quận công.
"Hoài Đạo Hiếu Vũ Đại Thắng Vương Nguyễn Nộn chi trưởng tử".

第八世祖陳朝有公為 平蠻大相軍 諱阮納和
 丁巳年, 一月二十四日終
正配平蠻大相軍夫人諱名㭍祥
生下正总以下四人
長男右號點 諱阮公律
三人諱名㭍祥 
都效瞼阮世賜之長子
Đệ Bát Thế Tổ Phù Trần Triều Hữu Công Vi Bình Man Đại Tướng Quân húy Nguyễn Nạp  Hoà, đinh tỵ niên, nhất nguyệt nhị thập tứ nhật chung. 
Chính phối Bình Man Đại Tướng Quân Phu Nhân húy danh tự thất tường sanh hạ chính tổng dĩ hạ tứ nhân,
Trưởng nam Hữu Hiệu Điểm húy Nguyễn Công Luật
Tam nhân danh tự thất tường 
" Đô Hiệu Kiểm Nguyễn Thế Tứ Chi Trưởng Tử".

(Tờ 12)
第九世祖陳朝有公為监軍千場 右號點 諱阮公津 戊辰年終
正配右號點夫人諱名㭍祥
生下正总以下三人
長男管軍鐵戧 諱阮策 生阮茏 即应龙
二男管軍鐵匳 諱阮赫
三男兪勤公諱阮明兪
平蠻大相軍阮納和之長子
Đệ Cửu Thế Tổ Trần Triều Hữu Công Vi Giám Quân Thiên Trường, Hữu Hiệu Điểm húy Nguyễn Công Luật, mậu thìn niên chung.
Chính phối Hữu Hiệu Điểm phu nhân húy danh tự thất tường sinh hạ chính tổng dĩ hạ tam nhân
Trưởng tử nam Quản Quân Thiết Sang húy Nguyễn Sách  sinh Nguyễn Phong tức Ứng Long
Nhị tử nam Quản Thiết Liêm húy Nguyễn Hách
Tam tử nam Du Cần Công húy Nguyễn Minh Du
" Bình Man Đại Tướng Quân húy Nguyễn Nạp  Hoà Chi Trưởng Tử".

第十世祖陳朝有公為 管鐵虎 兪勤公 諱阮明兪 庚午年終
正配管鐵虎夫人 諱名㭍祥
生下正总以下三人
長男左號點 諱阮崇
二男管區密院 諱阮書
三男管庄輔導山峒 惠國公阮忭
右號點阮公津之弟三子
Đệ Thập Thế Tổ Phù Trần Triều Hữu Công Vi Quản Thiết Hổ, tước Du Cần Công húy Nguyễn Minh Du, canh ngọ niên chung. 
Chính Phối Quản Thiết Hổ Phu Nhân húy danh tự thất tường, sanh hạ chính tổng dĩ hạ tam nhân 
Trưởng nam Tả Hiệu Điểm húy Nguyễn Sùng
Nhị nam Quản Khu Mật Viện húy Nguyễn Thư
Tam nam Quản Trang Phụ Đạo Sơn Động húy Nguyễn Biện, phong Huệ Quốc Công.
" Hữu Hiệu Điểm húy Nguyễn Công Luật Chi Đệ Tam Tử".

(Tờ 13)
第十一世祖陳朝有公為 管庄輔導山峒 惠國公 諱阮忭 即薦 六月十二日終 墓在天宗山
正配惠國公夫人 諱梅是律 諡慈心 生下正总以下八人
長男左號點 諱阮作 二男管內諱阮佔 三男諱阮貞 四男諱阮體 五男諱阮波 六男諱阮服 
長女諱阮氏河 二女 諱阮氏彷
兪勤公阮明兪之弟三子
Đệ thập nhất thế tổ Trần triều hữu công vi Huệ Quốc Công húy Nguyễn Biện, tự Tiến. 
Lục nguyệt thập nhị nhật chung Mộ tại Thiên Tôn Sơn.
Chính phối Mai Thị Luật, thụy Từ Tâm sinh hạ chính tổng dĩ hạ bát nhân 
Trưởng nam Tả Hiệu Điểm húy Nguyễn Tác, 
Nhị nam Quản Nội húy Nguyễn Chiếm, 
Tam nam húy Nguyễn Trinh, 
Tứ nam húy Nguyễn Thể, 
Ngũ nam húy Nguyễn Ba, 
Lục nam húy Nguyễn Phục, 
Trưởng nữ húy Nguyễn Thị Hà,  
Nhị nữ Nguyễn Thị Phảng. 
" Du Cần Công Nguyễn Minh Du chi đệ tam tử"

第十二世祖管內 諱阮佔 十月二十日終 墓在天宗山
正配管內夫人 諱梅是槑 號妙義 諡慈善 墓在天宗山
生下正总以下八人
長男黎朝昭光侯 諱阮儲 二男諱阮經 三男諱阮榮
四男諱阮敏
長女諱阮是貝 二女諱阮是蚆 三女諱阮是笈 四女諱阮是鍊
惠國公阮忭之弟二子
Đệ thập nhị thế tổ Quản Nội húy Nguyễn Chiếm, thập nguyệt nhị thập  nhật chung Mộ tại Thiên Tôn Sơn. 
Chính phối Mai Thị Mai, hiệu Diệu Nghĩa, thụy Từ Thiện Mộ tại Thiên Tôn Sơn. 
Sinh hạ chính tổng dĩ hạ bát nhân. 
Trưởng nam Chiêu Quang Hầu Nguyễn Trừ (Sử), nhị nam húy Nguyễn Kinh, tam tử húy Nguyễn Vinh, tứ nam húy Nguyễn Mẫn.
Trưởng nữ húy Nguyễn Thị Bối, nhị nữ húy Nguyễn Thị Ba, tam nữ húy Nguyễn Thị Cấp, tứ nữ húy Nguyễn Thị Luyện.
" Huệ Quốc Công Nguyễn Biện chị đệ nhị tử"

(Tờ 14)
第十三世祖為太尉昭光侯封義國公諱阮儲 四月十日終 墓在天宗山
正配義國公夫人 諱梅是洸
正配世一義國公夫人 諱杜是校
正配世二義國公夫人 諱杜是華 生下正总以下十人
長男諱阮美 二男諱阮野 三男諱阮愈 四男諱阮公笋 五男諱阮淋 六男諱阮啉
長女諱阮佳 二女諱阮譽 三女諱阮邊 四女諱阮衍
管內阮佔之長子
Đệ thập tam thế tổ vi Thái Úy Chiêu Quang Hầu, phong Nghĩa Quốc Công húy Nguyễn Trừ, tứ nguyệt thập nhật chung Mộ tại Thiên Tôn Sơn.
Chính phối Mai Thị Quang
Chính phối thứ nhất húy Đỗ Thị Hiệu
Chính phối thứ hai Đỗ Thị Hoa sinh hạ chính tổng dĩ hạ thập nhân 
Trưởng nam Nguyễn Mỹ, 
Nhị nam Nguyễn Dã, 
Tam nam Nguyễn Dũ, 
Tứ nam Nguyên Công Duẩn, 
Ngũ nam Nguyễn Lâm, 
Lục nam Nguyễn Lam.
Trưởng nữ Nguyễn Giai, nhị nữ Nguyễn Dự, tam nữ Nguyễn Biên, tứ nữ Nguyễn Diễn.
" Quản Nội Nguyễn Chiếm chi trưởng tử"

(Tờ 15) 
第十四世祖奉直大夫都校檢事 封太保宏國公諱阮公笋 諡保全 昭光侯之弟四子終七月初十日
棃太祖朝開國功臣 墓在天尊山 
四世祖姊諱枚氏媵封合夫人號慈顏 墓在清化省天尊山 生下七男三女
長男太尉封偵國公諱阮徳忠 諡明義             
弟二男指挥使封繆國公諱阮仁政諡保纯
弟三男探総知為洲郡公諱阮孝義諡常心              
弟四男副國公封為頻郡公諱阮琢諡德慶府君  
弟五男武封為爽國公諱阮鲁    
弟六男鎮殿校尉封松溪侯諱阮有禮諡俍心
弟七男都知為普郡公諱阮伯高諡亮康
長女諱阮氏發 二女諱阮氏台 三女諱阮氏巴
義國公阮儲之弟四子
Đệ thậpTứ thế tổ Phụng trực đại phu Đô hiệu kiểm sự phong Thái bảo Hoành quốc công Húy Nguyễn Công Duẩn thụy Bảo Toàn Chiêu quang hầu chi đệ tứ tử Chung thất nguyệt sơ thập nhật Lê thái tổ triều khai quốc công thần Mộ tại Thiên Tôn sơn
Tứ thế tổ tỷ húy Mai Thị Ánh tặng Hợp phu nhân hiệu Từ Nhan Mộ tại Thanh Hóa tỉnh Thiên Tôn sơn Sinh hạ thất nam tam nữ
Trưởng nam Thái úy Trinh quốc công húy Nguyễn Đức Trung thụy Minh Nghĩa
Đệ nhị nam Chỉ huy sứ phong Mục quốc công húy Nguyễn Nhân Chính thụy Bảo Thuần                
Đệ tam nam Thám tổng tri vi Châu quận công húy Nguyễn Hiếu Nghĩa thụy Thường Tâm
Đệ tứ nam Phó quốc công phong vi Tần quận công húy Nguyễn Trác thụy Đức Khánh phủ quân 
Đệ ngũ nam Vũ úy phong vi Sảng quốc công húy Nguyễn Lỗ                
Đệ lục nam Trấn điện hiệu úy phong Tùng khê hầu húy Nguyễn Hữu Lễ thụy Lương Tâm              
Đệ thất nam Đô tri vi Phổ quận công húy Nguyễn Bá Cao thụy Lượng Khang             
Trưởng nữ húy Nguyễn Thị Phát               
Nhị nữ húy Nguyễn Thị Hai (Thai)               
Tam nữ húy Nguyễn Thị Ba
Nghĩa quốc công Nguyễn Trừ chi đệ tứ tử

(Tờ  17) 第十五世祖西軍左都督㤝忠翊運楊武貞㦤功臣贈封太尉貞國公諱阮德忠諡明義八月初一日終 墓在天尊山
正記諱阮氏弦號淑順夫人五月初七日終 墓在天尊山生下四男九女
長男謹事郎廣休播 諱阮有永贈封恒國郡公
二男諱阮有度 諡明惠 三男諱阮有韶
四男諱阮有護 諡正太 長女宮人 諱阮氏連
二女暄微嘉靖睦莊親渊恭来懿貞慈皇太后
諱阮氏玉 棃朝皇后生棃憲尊皇帝
三女宮人諱阮氏癒 四女宮人諱阮氏琇
五女宮人諱阮氏琰 六女宮人諱阮氏璵
七女宮人諱阮氏墉 八女宮人諱阮氏玖
九女宮人諱阮氏琚 
宏國公阮公笋之長子
Đệ thập ngũ thế tổ Tây quân Tả đô đốc sung trung dực vận Dương vũ trinh ý công thần tặng phong Thái úy Trinh quốc công húy Nguyễn Đức Trung thụy Minh Nghĩa. Bát nguyệt sơ nhất nhật chung Mộ tại Thiên Tôn sơn
Chính phối húy Nguyễn Thị Huyền thụy Thục Thuận phu nhân Ngũ nguyệt sơ thất nhật chung Mộ tại Thiên Tôn sơn Sinh hạ tứ nam cửu nữ
Trưởng nam Cẩn Sự Lang Quảng Hưu Bá húy Nguyễn Hữu Vĩnh, phong Hằng Quốc Quận Công.
Nhị nam húy Nguyễn Hữu Độ, thụy Minh Huệ.
Tam nam húy Nguyễn Hữu Thiều
Tứ nam húy Nguyễn Hữu Hộ, thụy Chính Thái
Trưởng nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Liên
Nhị nữ Huyên vi gia tĩnh mục trang thân uyên cung lai ý trinh từ Hoàng thái hậu Lê triều hoàng hậu sinh Lê hiến tông hoàng đế
Tam nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Dũ
Tứ nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Tú
Ngũ nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Diễm 
Lục nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Dư
Thất nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Dung
Bát nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Cửu
Cửu nữ Cung Nhân húy Nguyễn Thị Cư
" Hoành Quốc Công Nguyễn Công Duẩn chi trưởng tử"

第十五世祖都知為普郡公諱阮伯高諡亮康 正記普郡公夫人號熟容生下二男
長男為知郡公
二男為丁亮子
宏國公阮公笋之第七子
Chính phối Phổ quận công phu nhân hiệu Thục Dung Sinh hạ nhị nam
Trưởng nam vi Tri quận công 
Nhị nam vi Đinh lượng tử
" Hoành Quốc Công Nguyễn Công Duẩn chi đệ thất tử"

(Tờ 18) 
第十六世祖謹事郎廣休伯諱阮有永贈封恒國郡公諡惠迪 八月十九日终 墓在天尊山清化省
正配...女諱阮氏玉 皇后贈封夫人號純潔 四月二十二日終基在天尊山 生下五男
長男駙馬都尉安福侯贈封嘉郡公諱阮知敬馬諡彥貞 配尚寿枚公主 七月十七日終 墓在天尊山
二男弘謙伯諱阮異諡牧貞
三男平福侯諱阮有奕字明達諡正德 正月二十一日終 塟在城山使
四男富和侯諱阮有紀諡恭靖七月二十日終
五男左都督松楊侯諱阮有鐸
諡德敬
太尉貞國公諱阮德忠之長子
Đệ thập lục thế tổ Cẩn sự lang quảng hưu bá húy Nguyễn Hữu Vĩnh tặng phong Hằng quốc quận công thụy Huệ Địch Bát nguyệt thập cửu nhật chung Mộ tại Thiên Tôn sơn Thanh Hoa tỉnh
Chính phối ... nữ húy Nguyễn Thị Ngọc Hoàng hậu tặng phong phu nhân hiệu Thuần Khiết
Tứ nguyệt nhị thập nhị nhật chung Mộ tại Thiên Tôn sơn Sinh hạ ngũ nam
Trưởng nam Phò mã đô úy An phúc hầu tặng phong Gia quận công húy Nguyễn Tri Kính Mã thụy Ngạn Trinh
Phối thượng thọ mai công chúa thất nguyệt thập thất nhật chung Mộ tại Thiên Tôn sơn
Nhị nam Hoằng khiêm bá húy Nguyễn Dực thụy Mục Trinh
Tam nam Bình phúc hầu húy Nguyễn Hữu Dịch tự Minh Đạt thụy Chính Đức Chính nguyệt nhị thập nhất nhật chung Táng tại thành sơn sứ
Tứ nam Phú hòa hầu húy Nguyễn Hữu Kỷ thụy Cung Tĩnh Thất nguyệt nhị thập nhật chung
Ngũ nam Tả đô đốc Tùng dương hầu húy Nguyễn Hữu Đạc thụy Đức Kính
" Thái úy Trinh quốc công Nguyễn Đức Trung chi trưởng tử"

(Tờ 19)
第十七世祖西军左大都督府左大都督松楊侯諱阮有鐸諡德敬
两夫人生下男女三十七人被莫氏犂朝处隐不知何使現存男女七人
正夫人號慈正 四月十六日終
長男衛富侯 二男衛尉锦花侯諱阮有忍
三男翁巴諱阮有巴 四男翁熟諱阮有熟
長女諱阮代理 二女諱阮氏璫配端國公
正夫人 生下翁掌和德主仕 三女諱阮代琳
恒國郡公阮有永之弟五子
Đệ thập thất thế tổ Tây quân tả đô đốc phủ Tả đô đốc Tùng dương hầu húy Nguyễn Hữu Đạc
Thụy Đức Kính Lưỡng phu nhân Sinh nam nữ tam thập thất nhân bị Mạc thị Lê triều sử ẩn bất
Tri hà sứ hiện tồn nam nữ thất nhân
Chính phu nhân hiệu Từ Chính Tứ nguyệt thập lục nhật chung
Trưởng nam Vệ phú hầu 
Nhị nam Vệ úy Cẩm hoa hầu húy Nguyễn Hữu Nhẫn 
Tam nam Ông Ba húy Nguyễn Hữu Ba
Tứ nam Ông Chín húy Nguyễn Hữu Chín 
Trưởng nữ húy Nguyễn Thị Lý
Nhị nữ húy Nguyễn Thị Đang phối Đoan quốc công Chính phu nhân Sinh hạ Ông trưởng hòa đức chúa sĩ
Tam nữ húy Nguyễn Thị Lâm
"Hằng quốc quận công Nguyễn Hữu Vĩnh chi đệ ngũ tử" 

(Tờ 20)
第十八世祖都指挥使司都指挥使衞尉錦花侯諱阮有忍諡福惠 十二月三十日终
正配諱張氏燕號慈光夫人四月初七日终 生下二男
長男翁主德諱阮有玄德
二男掌營朝文侯諱阮有朝文
松陽侯阮有鐸之弟二子
Đệ thập bát thế tổ Đô chỉ huy sứ ti Đô chỉ huy sứ vệ úy Cẩm hoa hầu húy Nguyễn Hữu Nhẫn thụy Phúc Huệ Thập nhị nguyệt tam thập nhật chung
Chính phối húy Trương Thị Yến thụy Từ Quang phu nhân Tứ nguyệt sơ thất nhật chung Sinh hạ nhị nam
Trưởng nam Ông Chủ Đức húy Nguyễn Hữu Huyền Đức 
Nhị nam Chưởng Dinh Triều văn hầu húy Nguyễn Hữu Triều Văn
"Tùng Dương Hầu Nguyễn Hữu Đạc chi đệ nhị tử".

(Tờ 21)
第十九世祖都指挥使司都指挥使掌營朝文侯諱阮有朝文 丁丑年 五月二十五日終 改塟在安代
正配諱張氏玉號慈廉夫人 十二月十一日終 塟在安代源金连使 生下七二男
長男掌奇都信侯 二男文聀全忠子 三男隊長韜畧侯 四男隊長慎徳侯 五男昭郡公贈封靖國公諱阮有鎰 生下四男 六男隊長翊徳侯 七男該隊俊徳侯
錦花侯阮有忍之弟二子
Đệ thập cửu thế tổ Đô chỉ huy sứ ti Đô chỉ huy sứ Chưởng dinh Triều văn hầu húy Nguyễn Hữu Triều Văn 
Đinh Sửu niên ngũ nguyệt nhị thập ngũ nhật chung Cải táng tại An Đại
Chính phối húy Trương thị Ngọc thụy Từ Liêm phu nhân Thập nhị nguyệt thập nhất nhật chung Táng tại An đại Nguyên kim liên sứ Sinh hạ thất nam
Trưởng nam Trưởng cơ Đô tín hầu
Nhi nam Văn chức toàn trung tử
Tam nam Đội trưởng thao lược hầu
Tứ nam Đội trưởng Thận đức hầu
Ngũ nam Chiêu quận công Tặng phong Tĩnh quốc công húy Nguyễn Hữu Dật Sinh hạ tứ nam
Lục nam Đội trưởng Dực đức hầu
Thất nam Cai đội Tuấn đức hầu
" Cẩm Hoa Hầu Nguyễn Hữu Nhẫn chi đệ nhị tử".

(Tờ 22)
第二十世祖赞治靖難上秩功臣特進大裋國上将军錦衣衞中军都督府中大都督掌府事 靚順化水步諸節制昭郡公贈封靖國公 諡曰勤節凉武之神諱阮有鎰 甲辰年三月初三日終 基在澫芚 
嘉隆四年封上等尊臣從紀太廟
嘉隆九年封闿國功臣
明命十二年赠封太付靖國公諡宜武
明命十六年為祠祀武廟
正配靖國公正夫人諱宋氏分 號慈行 六月十六日終 生下四男
長男鎮憮豪良侯贈封為郡公諡柔慈諱阮有鎊 生下十一男
二男掌奇忠勝侯 五月二十二日終 塟在澫寧 生下六子见存一人
三男元宰禮郡公諡剛直諱阮有鏡平高綿有功 生下四男二女
四男元輔信郡公諡敏倢㨗諱阮有銃平有紹亂有功 九月初六日終 生下十二男
朝文侯阮有朝文之長子
Đệ nhị thập thế tố Tán trị tĩnh nạn thượng trật công Đặc tiến đại thụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Trung quân đô đốc phủ Trung đại đô đốc Trưởng phủ sự tĩnh thuận hóa thủy bộ Chư tiết chế Chiêu quận công tặng phong Tĩnh quốc công Thụy viết cần tiết lương võ chi thần húy Nguyễn Hữu Dật Giáp Thìn niên tam nguyệt sơ tam nhật chung Táng tại Vạn Xuân
Gia Long tứ niên phong Thượng đẳng tôn thần tòng kỷ Thái miếu
Gia Long cửu niên phong Khai quốc công thần
Minh Mạng thập nhị niên tặng phong Thái phó Tĩnh quốc công thụy Nghi Vũ
Minh Mang thập lục niên vi từ tự Vũ Miếu
Chính phối Tĩnh quốc công chính phu nhân húy Tống Thị Phận hiệu Từ Hạnh Lục nguyệt thập lục nhật chung Sinh hạ tứ nam
Trưởng nam Trấn vũ Hào lương hầu tặng phong Vi quận công thụy Nhu từ húy Nguyễn Hữu Bảng Sinh hạ thập nhất nam
Nhị nam Trưởng cơ Trung thắng hầu Ngũ nguyệt nhị thập nhị nhật chung Táng tại Vạn Ninh Sinh hạ lục tử kiến tồn nhất nhân
Tam nam Nguyên tể Lễ quận công thụy Cương Trực húy Nguyễn Hữu Kính bình cao miên hữu công Sinh hạ tứ nam nhị nữ
Tứ nam Nguyên phụ Tín quận công thụy Mẫn Tiệp húy Nguyễn Hữu Súng bình hữu thiệu loạn hữu công Cửu nguyệt sơ lục nhật chung  Sinh hạ thập nhị nam
" Triều Văn Hầu Nguyễn Hữu Triều Văn chi trưởng tử".

第二十一世祖敦厚功臣特進開府輔國上将军錦衣衞前軍都督府前大都督掌府事鎮憮豪良侯贈封為郡公諡柔慈府君諱阮有鎊 癸巳年七月二十七日終 塟在艸元坤山 改葬在㵢崚使
嘉隆年間十二年癸酉修開國功臣...
正配豪良侯夫人諱宋氏貴娘號慈心夫人 塟在艸山峝
正配次一豪良侯夫人諱阮氏童號媒春 四月二十八日終
塟在盎山废峝 生下公分為十一男
第一房長男為該奇紹政侯諡純絜諱阮有銓 生下正統以下八人
第二房二男為有前該隊長攀龍侯 生下二男
第三房三男為前隊長慶雲侯 生下三男
第四房四男為前記錄灰俊侯諱阮有鎔 生下四男
第五房五男為前隊長美才侯 生下一男
第六房六男為前守城該奇笋(先)德侯生下四男
第七房七男為前隊長纘武侯 生下一男
第八房八男為前隊長坚才候 生下一男
第九房九男為前該隊洪各侯 無嗣
第十房十男為前該隊搛廉勘断識量侯 生下二男
第十一房十一男為前禔領檢校侯 生下一男
靖國公阮有鎰之長子
譜房具有大尊譜明註
Đệ nhị thập nhất thế tổ Đôn hậu công thần Đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ tiền quân đô đốc phủ Tiền đại đô đốc Chưởng phủ sự Trấn vũ Hào lương hầu Tặng phong Vi quận công thụy Nhu Từ phủ quân húy Nguyễn Hữu Bảng
Quý Tỵ niên thất nguyệt nhị thập thất nhật chung
Táng tại Thảo nguyên khôn sơn Cải táng tại Lòi lăng sứ
Gia Long niên gián thập nhị niên Quý Dậu Tu Khai quốc công thần ...
Chính phối Hào lương hầu phu nhân húy Tống Thị Quý Nương hiệu Từ Tâm phu nhân Táng tại Thảo Sơn Động
Chính phối thứ nhứt Hào lương hầu phu nhân húy Nguyễn Thị Đồng hiệu Môi Xuân Tứ nguyệt nhị thập bát nhật chung
Táng tại Áng Sơn Phế Động 
Sinh hạ công phận vi thập nhất nam
Đệ nhất phòng Trưởng nam vi Cai kỳ (cơ) Thiệu chính hầu thụy Thuần Khiết húy Nguyễn Hữu Thuyên Sinh hạ chính thống dĩ hạ bát nhân
Đệ nhị phòng Nhị nam vi Tiền cai đội trưởng Phan long hầu Sinh hạ nhị nam
Đệ tam phòng Tam nam vi Tiền đội trưởng Khánh vân hầu Sinh hạ tam nam
Đệ tứ phòng Tứ nam vi Tiền ký lục Khôi tuấn hầu húy Nguyễn Hữu Dung Sinh hạ tứ nam
Đệ ngũ phòng Ngũ nam vi Tiền đội trưởng Mỹ tài hầu Sinh hạ nhất nam
Đệ lục phòng Lục nam vi Tiền thủ thành Cai cơ Duẩn (Tiên) đức hầu Sinh hạ tứ nam
Đệ thất phòng Thất nam vi Tiền đội trưởng Toản vũ hầu Sinh hạ nhất nam
Đệ bát phòng Bát nam vi Tiền đội trưởng Kiên tài hầu Sinh hạ nhất nam
Đệ cửu phòng Cửu nam vi Tiền cai đội Hồng các hầu Vô tự
Đệ thập phòng Thập nam vi Tiền cai đội kiêm khám đoán Thức lượng hầu Sinh hạ nhị nam
Đệ thập nhất phòng Thập nhất nam vi Tiền đề lĩnh Kiểm hiệu hầu Sinh hạ nhất nam
Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật chi trưởng tử
Phổ phòng cụ hữu đại tôn phổ minh chú

第二十二世祖阮朝有公為該奇紹政侯諱阮有銓諡純絜 七月初五日終 塟在艸元坤山
正配紹政侯夫人諱名㭍祥
生下正統以下八人见存一人
長男諱阮有鎛
鎮憮豪良侯阮有鎊之長子
Đệ nhị thập nhị thế tổ Nguyễn triều hữu công vi Cai kỳ Thiệu chính hầu húy Nguyễn Hữu Thuyên thụy Thuần Khiết Thất nguyệt sơ ngũ nhật chung Táng tại Thảo Nguyên Khôn sơn
Chính phối Thiệu chính hầu phu nhân húy danh tự thất tường Sinh hạ chính thống dĩ hạ bát nhân kiến tồn nhất nhân
Trưởng tử húy Nguyễn Hữu Bác 
Trấn vũ Hào lương hầu Nguyễn Hữu Bảng chi trưởng tử
.........
#Nguyễn Hữu Thịnh phụng tu cát nhật tháng 1 Năm Tự Đức thứ 12.

#Nguyễn Hữu Độ phụng tu 7 tháng 1 năm Tự Đức thứ 11.

#Cung lục lần 1 ông là tỉnh hạt hội viên Nguyễn Hữu Toàn phụng tu Nguyễn Hữu Tộc Tôn Đồ Gia Phổ. 15/9 năm Bảo Đại thứ 16.

#Nguyễn Hữu Thắng  phụng tu Nguyễn Hữu Thị Tộc Phả năm 2005.

#Cung lục lần 2. Nguyễn Hữu Toản năm 2008

#Cung lục lần 3. Thiếu úy Nguyễn Hữu Bảo Nam - Phòng Quân Báo, Bộ Tham Mưu, Quân Khu 7, Bộ Quốc Phòng Việt Nam Kỷ sửu niên, cửu nguyệt, thập ngũ nhật. 

#Cung lục lần 4. Nội Nguyễn Hữu Ứng, Nguyễn Hữu Am, chú Nguyễn Hữu Tri năm 2010.
...................................
Ninh Bình tỉnh Gia Viễn huyện Gia Hưng xã Hoa Tiên thôn Động Hoa Lư xứ.

#Photograp: bìa Gia Phả 

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

Lịch sử ngày Giỗ Tổ Hùng Vương



Cập nhật: Thứ năm, 7/4/2011 | 9:29:37 AM
“Dù ai đi ngược về xuôi
 Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân tộc, của đất nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.

Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.

Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương trên Đền Thượng.

Từ xa xưa lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt Nam. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...”.

Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.

Hình ảnh Lễ dâng hương Đền Hùng vào năm 1904. Ảnh: Internet.

Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày mùng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.

Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều về thăm viếng. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - hướng về cội nguồn dân tộc.

Hình ảnh Lễ dâng hương Đền Hùng vào năm 1905. Ảnh: Internet.

Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng 1 tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 2 lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”.“

Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thông tin - thể thao phối hợp với các ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm lịch).

Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể như sau:

- “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hoá - Thông tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.

- “Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.

- “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.

Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong ngày này, nhân dân cả nước có điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.

Theo bqllang.gov.vn

TỘC ƯỚC


HỌ NGUYỄN HỮU

Động Hoa Lư, Châu Đại Hoàng, Đại Cồ Việt (cũ)
(Nay là Động Hoa Lư “Hoa Tiên”, Xã Gia Hưng, Huyện Gia  Viễn, Tỉnh Ninh Bình, Việt Nam)



LỜI NÓI ĐẦU

       Chúng ta rất vinh dự và tự hào về dòng họ Nguyễn Hữu của chúng ta là một trong những Tộc Họ có tên sớm nhất trong lịch sử Việt Nam thời lập quốc. Xét về mặt lược sử dòng Họ Nguyễn được chọn 1 trong những dòng họ thuần việt,  họ Nguyễn Hữu nhà ta chỉ biết được chính xác khởi nguồn từ  cụ Nguyễn Phước (Thước) là Gia Tướng của Dương Đình Nghệ - Nhà Ngô, và có tương truyền rằng còn nhỏ rất thân với hai anh em Đinh Công Trứ  và Đinh Thúc Dự. Sau này cụ sinh hạ được 3 con trai là: Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục và Nguyễn Bặc đều là Gia Tướng cống hiến cả cuộc đời cho nhà Đinh (Đinh Hoàn hay Đinh Tiên Hoàng) Xét về mặt xã hội theo bách gia tính thì họ Nguyễn xuất xứ từ miền Bắc Giao Châu (Nam Tống).

Theo cuộc Nam chinh mở mang bờ cõi, đi qua nhiều vùng miền và các thế hệ được phân ra các nhánh và định cư khắp nơi. Trong đó Ngài Thủy Tổ Phụ thân của Nguyễn Phước (Thước) về đến làng Đại Hữu, trấn thanh hoa ngoại, nhưng đến đời thứ 2 là nguyễn Phước lại di cư  về sau gia đình lại định cư tại Động Hoa Lư, Trấn Thanh Hoa Nội cùng Châu Đại Hoàng và Sinh Hạ ba Ngài Nguyễn bồ, nguyễn phuc, nguyễn bặc đều làm tướng. 
Đến đời cháu nội của ông có hai nguời là Nguyễn Đê, nguyễn đạt (đạo) cũng có lần chạy chốn về tới thanh hoá sau đó trở lên mạn hà bắc, sau khi kết giao với Lý Công Uẩn và Đào Cam mộc, sau cùng Lý Công Uẩn phò nhà Lê và sau khi Lê Long Đĩnh chết thì Nguyễn Đê, cùng với văn võ triều đình cùng với Đào Cam mộc Đưa Lý Công uẩn Lên làm Vua sau này nối tiếp các đời về sau từ cái nôi đại Hữu – Ninh Bình đến Thanh Hoá, Hà Bắc, Phù Dực, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, sau còn khai phá vào đàng trong tới An Giang, rồi quay trở lại Sài Gòn gia Định, Đồng Nai, Bình Dương, Quảng Bình và lại về quê hương Ninh Bình sau đến năm 1997 hậu duệ đời thứ 34 lại định cư vào miền đất lành Sông Bé nay là Bình Dương , Bình Phước và chỉ còn lại ba Miêu Duệ đời thứ 34 ở lại quê hương nay cũng phát triển rất mạnh.Tiếp tục đời thứ 35 định cư cả một chi trưởng vào Miền Đông nay là Bình Phước, đời kế tiếp tứ 36 vẫn được sinh ra tại miền đất sinh vua, sinh thánh tới năm 2006 được Trưởng Tộc và phó trưởng tộc giao quyền trưởng tộc tiếp tục sưu tra và ghi chép phổ và nối nghiệp cha ông và gìn giữ đạo hiếu. đến năm 2009 hậu duệ đời thứ 36 nhận thấy phong thủy ở đây tốt lành, ruộng đất phì nhiều nên đã quyết chí lập kế hoạch kinh tế - chính trị gia đình kết hợp định cư  miền đông phát triển kinh tế cũng là quê hương thứ hai cho hậu duệ đời thứ 37 tộc họ Nguyễn Hữu và kết hợp phát huy truyền thống Chân Thiện Mỹ và tiếp tục xây dựng và giữ gìn văn hoá tại quê hương Ninh Bình trong tương lai cả dòng họ ta sẽ lập nên tiền đồ của Gia Tộc Nguyễn Hữu lưu danh mãi mãi và mai sau…, 
cho nên về tương lai bức hoành phi sẽ thờ 6 chữ  QUANG TÔNG DIỆU TỔ TRƯỜNG NGUYÊN: Với ý nghĩa khởi đầu rực rỡ, dòng họ vẻ vang. Đó là những di sản tinh thần vô giá mà tổ tiên chúng ta đã bao đời dày công xây dựng, là con cháu được thừa hưởng phải biết tôn vinh phát huy truyền thống quí báu tốt đẹp ấy.

     
  Tộc Họ là một cộng đồng, một kết cấu duy nhất mang tính huyết thống có sức bền vững tồn tại đến muôn đời. Bởi vậy, việc hướng dẫn để Tộc Họ Nguyễn Hữu sinh hoạt đi vào nề nếp vừa ích nước, lợi nhà là điều cần thiết phải làm cho bằng được. Tộc Họ Nguyễn Hữu có trách nhiệm phát huy và bảo tồn những giá trị tốt đẹp của dòng họ, đồng thời tăng cường sự đoàn kết, tình thân ái giữa bà con trong thân tộc và người dân địa phương.
Để đạt được những mục đích nói trên, Tộc chúng ta phải có một tổ chức gồm những người có năng lực, trí tuệ, và đức hạnh để đảm trách những công việc của Gia Tộc. Để làm được điều đó, chúng ta phải tập hợp Tộc Họ Nguyễn Hữu có Nguồn gốc Động Hoa Lư  thành một Hội Đồng Nguyễn Hữu Gia Tộc và chính thức áp dụng Tộc Ước của Gia Tộc Nguyễn Hữu Gia để con cháu theo đó thực hiện tốt các chủ trương của Tộc Họ Nguyễn Hữu.



•    Phát huy và bảo tồn những truyền thống tốt đẹp vốn có của dòng tộc từ trước đến nay như lòng yêu nước, gương hiếu học, rèn luyện tư cách đạo đức để trở thành một công dân tốt.

•    Tổ chức các Lễ để nhớ ơn công đức của Tổ tiên trong các ngày giỗ hằng năm và những ngày dãy mã... đồng thời cũng là dịp để con cháu Nội - Ngoại và bà con gặp gỡ nhau nhằm tăng thêm tình đoàn kết, tương thân tương ái.
•    Động viên mọi người trong thân tộc chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của Nhà Nước, làm tốt nghĩa vụ công dân.
•    Giữ gìn thuần phong mỹ tục, bài trừ các tệ đoan xã hội .
•    Thực hiện tốt công tác khuyến học, khuyến khích động viên, khen thưởng và giúp đỡ con cháu trên con đường học vấn.
•    Tổ chức cứu trợ kịp thời cho bà con thân tộc khi gặp hoạn nạn…
•    Thăm viếng và hiếu hỷ những người trong Tộc Họ gặp hoạn nạn, ốm đau hoặc mệnh chung một cách thiết thực.
•    Tổ chức mừng thọ cho những thân tộc thọ trên 70 tuổi.
•    Phát huy tình đoàn kết giữa các tộc họ khác trong thôn, xã.
Bản tộc ước này do “Hội đồng gia tộc Nguyễn Hữu” dự thảo, đưa ra tham khảo ý kiến, góp ý bổ sung của toàn thể các thành viên trong Tộc Họ.



CHƯƠNG I: NGUYÊN TẮC CHUNG


Điều 1: Những người trong Gia Tộc Họ Nguyễn đều có chung một Ngài Tổ sinh ra không phân biệt nhỏ - lớn, trai - gái, sang - hèn, địa vị và tôn giáo,v.v… tất cả đều có quyền và nghĩa vụ đóng góp xây dựng Tộc Họ.

Điều 2: Tộc ước không quy định những điều trái với hiến pháp, pháp luật, trái với chính sách và những quy định hiện hành của nhà nước cũng như của địa phương.

Điều 3: Mọi thành viên trong Tộc Họ đều có trách nhiệm tham gia xây dựng Tộc ước và tự nguyện thực hiện để góp phần làm rạng rỡ, vẻ vang dòng tộc.





CHƯƠNG II: THỜ PHỤNG - LỄ CÚNG TỔ TIÊN


Điều 4: Ngày giỗ tổ, hiệp kỵ (tùy theo thời gian sẽ tổ chức sơ và tổng kết cuối năm)

* Mỗi năm có …...........…. ngày giỗ của Tộc Họ.
- Vào ngày : .......... / ........../ 20........ (nhằm ngày ........../ ........./ ............ Âm lịch)

- Vào ngày : .......... / ........../ 20........ (nhằm ngày ........../ ........./ ............ Âm lịch)


- Vào ngày : .......... / ........../ 20........ (nhằm ngày ........../ ........./ ............ Âm lịch)


- Vào ngày : .......... / ........../ 20........ (nhằm ngày ........../ ........./ ............ Âm lịch)


- Vào ngày : .......... / ........../ 20........ (nhằm ngày ........../ ........./ ............ Âm lịch)


+ Trường hợp nếu tháng đó có nhuận thì chọn tháng đầu (ưu tiên chọn ngày chủ nhật).

+ Vào dịp Trung Nguyên rằm tháng 7 –Tế Thu thì nên cúng chay.
+ Con cháu nội – ngoại, trai – gái, dâu - rể phải tề tựu về từ đường, trước để dâng hương ông bà tổ tiên sau là để siết chặt tình thân trong gia tộc.

Điều 5: Dãy mã: Trước giỗ 02 ngày, các thành viên trong Gia Tộc phải đi thăm mồ mã ông bà tổ tiên, sửa sang tu bổ phần mộ (nếu có).

Định ngày dãy mã là ngày : ......................................................................



Điều 6: Tế lễ:
Các thành viên trong tộc mỗi người một việc đã được phân công từ trước phải hoàn thành trách nhiệm của mình. Trong việc cúng tế thể hiện được nếp sống văn minh, tiết kiệm, không rườm rà, hạn chế những chi tiêu không cần thiết nhưng vẫn giữ được vẻ trang nghiêm và tôn kính. Trong thời gian tổ chức cúng lễ tại từ đường tuyệt đối không được uống rượu – bia, say xỉn. Sau khi hoàn tất có thể có một bữa liên hoan để ngồi lại tỏ tình thân giao trong dòng họ và có thể dùng một vài ly rượu thân mật thì nên tổ chức ở nhà nhưng phải giữ đúng tư cách, vui vẻ, hoà nhã, văn minh, lịch thiệp và tự góp tiền.




CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG GIA TỘC
THÀNH PHẦN - CHỨC NĂNG – NHIỆM VỤ


Điều 7: Hội đồng gia tộc bao hàm vị Tộc trưởng là một vị cao niên ở nhánh nhất và các vị cao niên trưởng phái đồng hàng. Nếu không có vị đồng hàng thì cử một vị đại diện trong phái đó (ví dụ: đời ông Nội sinh ra 5 người con nếu có một vị qua đời thì cháu Nội trưởng có quyền thế vị, không kể tuổi lớn nhỏ).

+ Đại diện các Phái – Chi ở các tỉnh khác, ở phương xa… thì có thể Hội đồng gia tộc cho lập một Phái - Chi ở địa phương đó.
+ Vị trưởng tộc ký các bảng vàng danh dự, quyết định khen thưởng, khuyến học…
* HĐGT bầu BCH thường trực Hội đồng Gia Tộc: gồm 09 vị (là những người tài đức có tâm huyết hưng thịnh gia tộc, có nhiệt tình trong công việc của Tộc Họ, nên có điện thoại di động và phổ biến ra tất cả con cháu được biết để liên lạc) và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, giám sát  điều chỉnh những sinh hoạt, hoạt động của Tộc Họ. Đại diện cho gia tộc trong các việc hiếu hỷ, tạo mối tương quan mật thiết với các Tộc Họ khác trong địa phương.




Điều 8: Ban chấp hành thường trực của Hội đồng Gia tộc: có 09 thành viên, gồm:

- Trưởng Ban điều hành: 01 vị
+ Thi hành các công việc của Tộc Họ theo Tộc ước. Ngoài các công việc nội bộ của tộc, Trưởng ban còn đại diện toàn tộc giao tiếp với các tộc bạn và liên hệ với chính quyền địa phương để nắm bắt sâu sát chủ trương, chính sách của Nhà nước, đồng thời để phối hợp , lồng ghép các chương trình và phổ biến cho các thành viên trong tộc biết để thực hiện tốt, ký các thông báo, giấy mời, giấy khen, khuyến học…
+ Duyệt tất cả các vấn đề thu – chi, khen thưởng, tổ chức phân công họp bàn những công việc thường niên cũng như đột xuất.
- Ban Tế Lễ : Ngoại trừ vị trưởng ban, Ban tế lễ có thể từ 3 đến 7 vị:
+ Gồm các vị cao niên đại diện cho các Phái và vị trông coi hương hỏa – từ đường phối hợp với trưởng và các ban lo việc nghi thức, văn tế, nội dung liên quan đến các Lễ - Tế hằng năm theo Tộc ước, có trách nhiệm nhắc nhở BCH những ngày chạp, giỗ, xuân thu, sửa sang, tu tảo mồ mã (xem thêm phần phụ lục về Tế Lễ và nghi thức cúng bái).
+ Phối hợp với Ban Tương Tế và các ban liên quan để phúng điếu – lễ nghi – hiếu hỷ cùng với các Phái - Chi trong Tộc Họ khi được mời.
+ Nghiên cứu hình thức tổ chức các kỳ Tế Lễ thường niên của Hội đồng
+ Phối hợp với các ban liên quan có thể thành lập đội Tế Lễ có đầy đủ cờ, kèn trống, quần áo, đề tế lễ.
- Ban giám sát : Có từ 2 đến 3 vị
+ Do Hội đồng gia tộc cử ra để giám sát các hoạt động sinh hoạt của HĐGT nói chung như : thu – chi , xây dựng, đạo đức, kỷ luật, khen thưởng …  
- Phó BCH kiêm trưởng ban phụ trách tương tế - đời sống: Từ 3 đến 5 vị.
+  Khi trong tộc có việc hiếu hỷ quan trọng (theo Tộc ước) thì phối hợp với các ban liên quan, báo cáo đề nghị lên trưởng ban để xem xét dự lễ, hỗ trợ …
- Về tang tế : khi có người thân trong tộc qua đời, thông báo cho mọi người trong tộc họ được biết. Ban tương tế đến gia đình để giúp đỡ , chia buồn và phúng điếu . Số lễ vật và tiền phúng điếu tùy theo hoàn cảnh , địa vị của người qua đời (từ 150.000 đ) ………………….. nhưng không được quá (500.000 đ )
-  Về tiệc cưới: Con cháu đám cưới được mời đại diện BCH và HĐGT đến dự. Số tiền quà tối thiểu từ (150.000 đ ) ………………………………


- Khi đau ốm nhẹ thì trong Phái – Chi thăm viếng nhau. Khi nằm bệnh viện thì tùy theo công đức và địa vị, BCH HĐGT cử người đi thăm. Số tiền tối thiểu (150.000 đ) ………………………….. Tối đa không quá (500.000 đ) 
- Trường hợp đau ốm đặc biệt thì BCH sẽ kêu gọi đóng góp riêng.


- Có thể kêu gọi đóng góp hỗ trợ khi trong Tộc Họ có gia đình gặp khó khăn, hoạn nạn cũng như giúp đỡ cho các cháu nghèo không có điều kiện học tập.


- Kịp thời phối hợp với chính quyền để bình chọn các hộ nghèo trong Tộc để được hưởng sự giúp đỡ của xã hội.


- Phó BCH kiêm trưởng ban vận động tài chánh : Tùy theo các Phái – Chi ở các nơi mà cơ cấu nhân sự hoặc con cháu có lòng nhiệt tình hảo tâm thì tham gia.
+ Người trong Tộc Họ, ưu tiên có khả năng đóng góp về tài chính, có uy tín với tộc họ và xã hội.
+ Ký thông báo các giấy tờ liên quan đến vận động tài chánh.
+ Giới thiệu đề cử các thành viên vào ban vận động và đề nghị khen – thưởng.
+ Tích cực vận động bà con xa gần trong Tộc Họ và các nhà hảo tâm đóng góp tài chánh vào các loại quỹ và trong việc cúng tế - nghi lễ. Công việc trước mắt là vận động để xây dựng nhà thờ và quỹ hằng niên. 
+ Phối hợp tổ chức làm kinh tế (nếu có) để gây quỹ cho Tộc Họ hoặc cho việc cúng lễ nào đó trong năm.
- Phó BCH kiêm trưởng ban bảo trợ danh:
+ Không nhất thiết phải là người trong Tộc Họ, có thể là những người có cảm tình với Tộc Họ hoặc là dâu rể… người có hảo tâm đóng góp hỗ trợ lớn cho Tộc Họ như: tài chánh, vật chất, danh dự v.v…
- Phó BCH kiêm trưởng ban phụ trách giáo dục khuyến học:
+ Hướng dẫn giáo dục, không để con cháu ham chơi, bỏ học, mù chữ (tối thiểu ít nhất là phải qua phổ cập lớp 10), khuyến khích con cháu trong Tộc Họ siêng năng học hành, đỗ đạt khoa cử và giữ vững truyền thống hiếu đạo theo các điều khoản của Tộc ước.
+ Đôn đốc các Phái - Chi trong Tộc Họ gửi danh sách con cháu học giỏi , xuất sắc và đề nghị khen thưởng trong các dịp lễ - đại hội hoặc đề nghị kỷ luật theo Tộc ước.
+ Đăng ký thành lập các thủ tục quỹ khuyến học của dòng tộc với chính quyền.
+ Việc khen thưởng tùy theo định mức của BCH trong mỗi năm.
- Thư ký kiêm kế toán:
+ Là người trong Tộc, có chuyên môn về thư ký và kế toán.
+ Tổng hợp các hoạt động của tộc họ.
+ Lưu trữ, dự thảo các kế hoạch chương trình hành động ngắn hạn, dài hạn.
+ Ghi biên bản các cuộc họp của Hội đồng, các ban chức năng, các kỳ lễ hội, cúng ky.
+ Lên chương trình các buổi lễ hằng năm. Có thể thể trực tiếp hoặc cử MC trong các buổi lễ.
+ Sưu tầm, tra cứu, kiểm chứng, kết nối gia phả của các Phái – Chi họ Nguyễn Hữu ở khắp nơi, đôn đốc việc lập gia phổ hay Niên Phổ
+ Thống kê sổ Thu - Chi và sổ theo dõi tài sản minh bạch rõ ràng.
+ Phối hợp với các ban liên quan để ghi sổ vàng công đức, sổ vàng truyền thống, các văn bằng, khen thưởng, khuyến học…
+ Giữ sổ tiết kiệm, sổ sách và ghi chép theo dõi quỹ họ. Phối hợp với thủ quỹ để báo cáo tài chính công khai hàng năm.
+ Ghi chép việc sinh tử trong họ.
- Thủ Quỹ :
+ Là người trong Tộc, có uy tín, có khả năng tài chánh thường xuyên, có sự đóng góp đáng kể tài chánh trong quỹ của Tộc.
+ Giữ sổ quỹ của tộc và đôn đốc việc nộp các quỹ.
+ Lập 02 sổ Thu-Chi và sổ theo dõi tài sản, minh bạch rõ rang
+ Chỉ giữ lượng tiền mặt trong quỹ trong khoảng (05 triệu đồng) ……………………., nếu nhiều hơn lên đến (02 triệu) phải gửi ngân hàng theo hình thức mở sổ tiết kiệm và phải có 02 người đứng tên là Trưởng BCH HĐGT và thủ quỹ.
+ Chỉ xuất khi có dấu của Gia tộc Nguyễn Hữu và chứng từ hợp lệ. Trường hợp đặc biệt, khi có ý kiến trực tiếp của BCH, có thể chi trước để kịp thời phục vụ công việc nhưng không được chi quá (500.000.đ) , người nhận phải ký vào sổ tạm ứng.

* Trong buổi họp cuối năm và cuối mỗi kỳ đại hội. Ban chấp hành phải trình chứng từ Quỹ và thu – chi của Gia Tộc .

    * Ngoài BCH thường trực của HĐGT, còn có các tiểu ban trong BCH để hoạt động các công việc của Tộc Họ.

-       Trưởng Ban Lễ soạn – tiếp tân:
+ Các con cháu trong Tộc Họ Nguyễn Hữu, có sức khỏe đa số là nữ. Khi có lễ cúng thì phải ăn mặc chỉnh tề, phục vụ chu đáo (có đồng phục càng tốt).
+ Phối hợp với các ban liên quan cùng đi tương tế - hiếu hỷ  theo Tộc ước.
+ Khi có lễ phải lo đón tiếp khách, soạn cơm nước cúng tế, dọn khách …
+ Đề nghị lên BCH để sắm trà nước…

-       Trưởng Ban nhà trù:
+ Các con cháu trong Tộc Họ Nguyễn Hữu, có sức khỏe đa số là nữ, có hiểu biết về nấu ăn.
+ Phối hợp với các ban liên quan để lo đi chợ, dọn cúng và ẩm thực.
-       Trưởng Ban chấp tác:
+ Con cháu trong Tộc Họ Nguyễn Hữu có sức khỏe, có nhiệt tình trong công việc Tộc Họ.
+ Tổ chức về hình thức buổi Lễ Tế như băng cờ, chiêng trống, máy móc tăng âm
+ Tập trung nhân lực để lo việc bàn ghế, bưng dọn v.v..
+ Phối hợp với các ban liên quan để lo việc dãy mã hằng năm.
+ Lo việc dọn quét , trang trí từ đường  trong các dịp lễ .

- Trưởng Ban hương hỏa – từ đường:
+ Ít nhất có 01 người thường xuyên có tuổi trong gia tộc để lo việc trông coi, hương khói, quét dọn hằng ngày hoặc định kỳ (Có thể bố trí tạm trú ở tại từ đường).
-       Trưởng Ban gia phổ :
+ Trưởng Ban gia phổ là thư ký kiêm nhiệm, có thể phối hợp cùng các Phái – Chi và một số ban viên có trình độ để thu thập và tu soạn gia phổ.
+ Ngoài sự cập nhật tạm Niên Phổ hằng năm, khi bước qua nhiệm kỳ mới thì đưa vào sổ gia phổ chính thức.
* Ngoài các ban trên, còn thành lập Ban xây dựng từ đường cho đến khi xây dựng hoàn thành khánh thành từ đường.

Điều 9: Nhiệm kỳ của Ban chấp hành HĐGT:
- Là những người có khả năng làm việc (có thể kiêm nhiệm)  không kể tuổi tác lớn – nhỏ ở Chi Phái nào, miễn có tài đức, trung thực, uy tín trong xã hội, có tâm huyết hưng thịnh gia tộc, có nhiệt tình trong công việc của Tộc Họ.
- Nhiệm kỳ của BCH là ….....…….năm / nhiệm kỳ. Khi hết nhiệm kỳ thì HĐGT triệu tập đầy đủ các Phái - Chi để bầu lại.
- Khi trưởng ban ủy quyền hoặc vắng mặt một thời gian lâu hoặc qua đời thì BCH sẽ bầu một trong 2 phó ban làm quyền trưởng ban cho đến hết nhiệm kỳ, trường hợp đặc biệt thì HĐGT mới họp đề cử.
- Khi có người trong BCH vì một lý do nào đó không làm việc nữa thì trong BCH bầu chọn người thay thế.




CHƯƠNG IV
THIẾT LẬP TỘC ƯỚC – BIÊN SOẠN GIA PHỔ - XÂY DỰNG TỪ ĐƯỜNG


Điều 10: Thiết lập Tộc Ước (xem Bản Tộc Ước)

Điều 11: Soạn lập gia phổ (có mẫu hệ thống)

- Gia phổ là một hình thức ghi chép tất cả các thành viên trong Tộc Họ Nguyễn Hữu, cho nên rất có giá trị, mọi người phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn chu đáo, trưởng các Phái , các Chi có trách nhiệm ghi chép bổ sung để nối tiếp lưu truyền cho con cháu đời sau.
- Trọn bộ gia phổ gồm có: 01 quyển sổ gia phổ và 01 tông đồ, gia phổ sau khi hoàn thành sẽ có 01 bản chính được quản tại Từ đường và sẽ in sao như bản chính thêm để giao cho các trưởng Phái – Chi lưu giữ để tham khảo (số lượng in sao tùy thuộc vào số lượng các Phái – Chi trong Tộc Họ). Gia phả khi giao cho các Phái – Chi lưu giữ thì không được tự ý ghi chép vào gia phổ (các gia đình con cháu khi có sự sinh – tử mới trong năm thì phải báo sớm cho thư ký trước các kỳ đại hội để tạm ghi vào sổ lưu gia phổ), việc cập nhật chính thức con cháu sẽ được thực hiện khi hết nhiệm kỳ bầu lại BCH mới.



Điều 12 : Xây dựng Từ đường (xem bản thành lập Ban xây dựng)
- Từ đường là nơi thờ cúng Thủy Tổ và các cụ tổ ở các Phái – Chi, các danh nhân liệt sĩ, những người không có ai nối dõi tông đường...
- Từ đường hiện nay chưa có cần phải xây dựng từ đường. Kinh phí xây dựng do tất cả các thành viên trong Tộc Họ đóng góp. Khi có từ đường: ngày lễ, tết nguyên đán con cháu phải đến từ đường thắp hương tiên tổ.

Điều 13 : Thành lập các quỹ gia tộc
- Qũy là do sự đóng góp tự nguyện của con cháu trong gia tộc , các nhà hảo tâm và nghĩa vụ đóng góp tối thiếu của con cháu theo tộc ước (xem Chương V : Nghĩa vụ - trách nhiệm – quyền lợi).
- Dùng vào việc bào trì nhà thờ, mồ mã, từ đường, cúng lễ. Nếu chưa thành lập được quỹ khuyến học và quỹ tương tế thì tùy theo họp bàn mỗi năm dùng qũy này trích cho việc khuyến học và tương tế.
- Thành lập quỹ khuyến học (nếu được sẽ thành lập sau)
- Thành lập quỹ tương tế (nếu được sẽ thành lập sau)

Điều 14: Sổ sách của gia tộc:
- Sổ vàng công đức: Ghi những người đã có công lao to lớn đóng góp công, của vào việc xây dựng, tôn tạo từ đường và mộ Tổ, đồng thời ghi tên những nhà hảo tâm, mạnh thường quân có tinh thần giúp đỡ cho Tộc Họ.
- Sổ vàng truyền thống : Ghi những truyền thống của Họ từ trước đến nay. Ghi những nhữnh danh nhân qua các thời kỳ : Anh hùng liệt sĩ, người đỗ khoa bảng.
- Sổ tài sản: Ghi đất đai, tộc tự, đồ thờ, đồ lễ, hương hoả và những vật phẩm con cháu xa gần, nội ngoại cúng tiến.




CHƯƠNG V:NHỮNG QUY ƯỚC CỤ THỂ ĐỂ XÂY DỰNG NỀ NẾP GIA PHONG – ĐẠO ĐỨC - HƯNG THỊNH TỘC HỌ


Điều 15 : Thực hiện nếp sống xã hội
- Mọi người không phân biệt trai - gái, già - trẻ, tôn giáo, nơi cư trú, có chung Thủy Tổ thuộc dòng họ Nguyễn Hữu đều là thành viên họ Nguyễn Hữu. Trong họ phải phân hàng từ trước đến nay, duy trì tôn ti trật tự của dòng họ, nghiêm cấm tuyệt đối làm chia rẽ mất đoàn kết.
- Những người có quan hệ tình cảm, kết nghĩa, con riêng với các thành viên của dòng tộc nếu có tinh thần tự nguyện sinh hoạt cùng Họ Nguyễn Hữu thì BCH HĐGT sẽ họp bàn xem xét về tư cách, đạo đức của người đó và quyết định có chấp nhận hay không.
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các chủ trương chính sách của Nhà nước và địa phương, không để xảy ra những trường hợp phạm pháp, không có người đĩ điếm, trộm cắp, nghiện ngập.
- Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, mọi nhà, mọi người hoạt động nhân đạo, từ thiện. Xây dựng đời sống văn hoá, đoàn kết với các họ khác, sống có tình làng nghĩa xóm.


Điều 16: Nếp sống cá nhân
- Luôn luôn học tập trau dồi, nâng cao năng lực, ý thức làm chủ, kỹ năng nghề nghiệp, có tác phong sống lành mạnh, giữ gìn phẩm chất trung hiếu, tôn trọng sự thật.

Điều 17 : Nếp sống gia đình
- Phải có ý thức được rằng, gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình tốt đẹp thì xã hội mới tốt đẹp. Tình nghĩa vợ chồng phải thuận hòa, tin tưởng nhau, biết nhường nhịn nhau, có trách nhiệm chung nuôi dạy con cái đầy đủ về thể chất và tinh thần, con cháu ngoan ngoãn, chăm học, chăm làm, biết nghe lời ông bà, cha mẹ. Kính già, yêu trẻ, lễ độ với mọi người. Ông bà gương mẫu, con cháu thảo hiền, có nề nếp gia phong đạo đức, học tập nên người, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc.
- Con cháu phải có trách nhiệm phụng dưỡng ông, bà, cha, mẹ. Lúc ốm đau phải tận tình chăm sóc. Khi qua đời thì thờ cúng chu đáo.
- Nếu các cháu học giỏi, được danh hiệu xuất sắc thì được khen thưởng heo quy định khuyến học hằng năm, hoặc làm được việc lớn cho dòng họ, có công lớn với đất nước, có địa vị cao trong xã hội thì sẽ được nêu gương và ghi vào sổ vàng truyền thống của dòng họ.
- Thực hiện nghiêm chỉnh nếp sống văn minh, tiết kiệm, không phô trương hình thức trong việc cưới, việc tang, xây cất mồ mả ..., đảm bảo theo quy định của pháp luật hiện hành và thuần phong, mỹ tục.
- Quan hệ với tộc họ: Anh em con cháu trong thân tộc, có điều kiện nên phải thăm viếng lẫn nhau. Khi khó khăn hoạn nạn có nhau, thực hiện theo tương tế của tộc ước cùng chia ngọt sẻ bùi, tạo nên tình thắm thiết trong thân tộc.




CHƯƠNG VI:NGHĨA VỤ - TRÁCH NHIỆM – QUYỀN LỢI


Điều 18: Họp hội.

- Trước nhất là HĐGT và BCH cũng như những thành viên trong thân tộc phải nêu cao ý thức trách nhiệm của mình tham gia đầy đủ các cuộc họp của tộc. Đóng góp ý kiến xây dựng.

Điều 19: Nghĩa vụ đóng góp để xây dựng Tộc Họ:

- Góp công: Đây là nghĩa cử tốt đẹp mà mỗi thành viên trong Tộc Nguyễn Hữu phải ý thức. Việc góp công nhằm mục đích tu tảo phần mộ Ông Bà – Tổ Tiên, xây dựng từ đường hay chuẩn bị các ngày lễ hội, tế tự.... Những người trên 18 tuổi đến dưới 60 tuổi đều phải góp công khi tộc họ cần và yêu cầu. Ngoài ra những người trên 60 tuổi có đủ sức khỏe mà tự nguyện tham gia thì càng tốt.
- Đóng góp tài chính: Trai, gái khi xây dựng gia đình có riêng tư rồi thì phải có trách nhiệm đóng góp tiền của vật chất để xây dựng tộc, các con cháu có lòng hảo tâm đóng góp tài chính cho Tộc Họ càng nhiều càng tốt). Việc đóng góp dựa trên nguyên tắc tự nguyện là chính nhưng không thấp quá dưới mức quy định tối thiểu của toàn tộc đã thống nhất. Đề nghị mức đóng tối thiểu như sau:




+ Con trai Tộc Nguyễn đã có gia đình mức sống trung bình thì đóng : từ ........... đến ........... triệu.

+ Con trai Tộc Nguyễn đã có việc làm lương hướng ổn định nhưng chưa có gia đình thì đóng : từ ................... đến .................. triệu.
+ Con trai Tộc Nguyễn đang còn đi học từ 18 tuổi trở lên thì đóng : .............................
+ Con trai và con gái Tộc Nguyễn dưới 18 tuổi thì tùy theo sự phát tâm. 
+ Con gái Tộc Nguyễn có gia đình thì đóng : .........................................................
+ Con gái Tộc Nguyễn đã có việc làm lương hướng ổn định nhưng chưa có gia đình thì đóng : từ ...................... đến ................ triệu.
+ Con gái Tộc Nguyễn đang còn đi học từ 18 tuổi trở lên thì đóng : .............................
+ Nếu những người có hoàn cảnh khó khăn thì có thể góp ngày công và các vật tư khác.
* Ngày đóng góp tài chính được quy định bắt đầu từ ngày : ………/ …….. / 20………. đến chậm nhất là ngày ……… / ……… / 20………





Điều 20: Trường hợp miễn giảm

- Trong gia tộc có người ốm đau lâu dài, kinh tế sa sút thì BCH sẽ thông qua Hội đồng Gia tộc xem xét miễn giảm, hoặc góp công sức vật tư khác hoặc được miễn hoàn toàn v.v...
- Thành viên trong gia tộc từ 75 tuổi trở lên được miễn đóng góp. Tuy nhiên thành viên nào tuy tuổi đã cao nhưng có lòng với ông bà tổ tiên xung phong đóng góp thì tộc biểu dương ghi nhận, khích lệ tinh thần.

Điều 21: Quyền lợi :

- Được hưởng những điều thiêng liêng truyền thống của dòng họ theo tộc ước.
- Được góp ý , ứng cử , bầu cử vào vị trí trong tổ chức của BCH HĐGT.
- Được hưởng các quy chế khen thưởng trong tộc ước.
- Được giúp đỡ tương tế khi gặp hoạn nạn.
- Được tương trợ trong các công việc trong xã hội.




CHƯƠNG VII: KHEN THƯỞNG –  KỶ LUẬT


Điều 22: Khen thưởng:

- Những người có công đức lớn với Gia Tộc, làm rạng danh dòng tộc hoặc có chức danh thành đạt địa vị cao trong xã hội thì được ghi tên vào sổ vàng truyền thống của Tộc Họ.
- Tuyên dương khen thưởng thành viên trong họ có nhiều thành tích trong việc thực hiện tộc ước, những người có thành tích đóng góp nhiều cho tộc cũng như các nàng dâu hiếu thảo:
+ Phụng dưỡng cha mẹ chồng khi đau khi ốm hết mực chăm sóc.
+ Chồng đi vắng hoặc đã khuất thay thế chồng đảm đang các công việc của chồng.
+Thay chồng nuôi con khỏe dạy con ngoan thì được tộc ghi công và phát huy biểu dương, khích lệ tinh thần và được tộc ghi vào sổ vàng truyền thống của Tộc để đời sau con cháu được biết và noi theo.
- Con cháu nếu học giỏi, Gia Tộc sẽ khen thưởng theo quy chế khuyến học (photo nộp cho thư ký).
- Học sinh xuất sắc ở bậc tiểu học: …………………………
- Học sinh xuất sắc ở bậc trung học: ………………………
- Học sinh xuất sắc ở bậc đại học: …………………………
- Đặc biệt các cháu đã tốt nghiệp Trung cấp, Cao Đẳng, Đại học trở lên không phân biệt trai gái ngoài việc khen thưởng còn vinh dự ghi vào sổ vàng truyền thống của Tộc.

Điều 23: Kỷ luật.

- Nếu không sinh hoạt, không tham dự các buổi tế lễ cũng như không chấp hành các công việc đã được phân công mà HĐGT đã nhắc nhở 2 lần nhưng vẫn tái phạm thì cá nhân đó sẽ bị HĐGT thông báo cho toàn Tộc biết.
* Nếu còn tái phạm nữa thì không được hưởng các quyền lợi theo quy chế của Tộc Ước. Nặng thì 03 năm – nhẹ thì 01 năm.
- Nếu không chịu nộp tiền theo quy định của Tộc mà không có đơn xin miễn giảm với lý do chính đáng gởi cho BCH HĐGT biết rõ mà đã được nhắc nhở thời hạn trong 01 tháng thì cũng bị HĐGT thông báo trong toàn Tộc biết.
* Nếu cố tình không đóng thì không được hưởng các quyền lợi theo quy chế của Tộc Ước.
- Trong gia đình khi thành viên bị sai phạm thì gia đình đóng cửa dạy nhau có lý có tình. Nếu gia đình giáo dục chưa tốt thì đưa người sai phạm ra phái - chi của mình đóng góp giải quyết. Nếu chi phái giải quyết không được thì đưa lên toàn tộc để giải quyết. Nặng thì ghi vào biên bản trách phạt – Nhẹ thì đến từ đường thắp hương ăn năn hối lỗi trước thệ nguyện trước tổ tiên – ông bà. Gia tộc lấy giáo dục làm chính, đóng góp xây dựng, thuyết phục hướng người sai phạm biết lỗi lầm của mình mà sửa chữa.
- Nếu sai phạm tác phong, đạo đức trầm trọng có liên quan đến pháp luật thì có thể báo hoặc đề nghị lên chính quyền địa phương giáo dục và xử lý theo pháp luật.




CHƯƠNG VIII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH


Điều 24: Mọi thành viên trong tộc họ có nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng tộc ước, chấp hành tộc ước, vận động mọi thành viên thực hiện. Trong quá trình thực hiện các thành viên trong Tộc Họ có quyền đề đạt ý kiến với BCH HĐGT nghiên cứu việc sửa đổi hoặc bổ sung. Việc thay đổi hoặc bổ sung, sửa chữa câu chữ trong Tộc ước chỉ có hiệu lực khi hết nhiệm kỳ, tổ chức Đại hội HĐGT , bầu lại BCH mới và được HĐGT thông qua.

Điều 25: Bản tộc ước soạn ra sau khi được tất cả thành viên trong tộc họ bàn bạc thảo luận, biểu quyết tán thành và xác lập bằng văn bản lưu giữ theo cùng gia phổ. Ngoài bản chính, sẽ photo nhiều bản giao cho các Trưởng Phái – Chi trong tộc để thi hành.

Điều 26: Những lời tâm huyết của Gia tộc:

Tộc ước của Gia Tộc Nguyễn Hữu gồm: 8 chương 27 điều được đưa ra cuộc họp của tộc bàn bạc đi đến nhất trí và bắt đầu thực hiện kể từ ngày …....... tháng …….. năm 20..........( tức ngày …....… / …......… / ...................... Âm lịch). 
“Ông bà tổ tiên chúng ta sinh cơ lập nghiệp trải qua biết bao khó khăn gian khổ để lại cho chúng ta cơ nghiệp của ngày hôm nay. Ông bà ta đã dạy ở đời cố gắng giữ cho được Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín là tài sản vô giá mà hậu thế phải noi theo”.

Điều 27: Sau khi Trưởng các đại diện Phái – Chi cũng như tất cả bà con thân tộc gồm ……………… đã nghe đọc và có đủ bản tộc ước để xem đều đồng ý như nội dung trong Tộc Ước đã nêu. Nếu có điều khoản nào sửa đổi bổ sung thì :
1. Ghi vào biên bản cuộc họp rõ ràng.
2. Ghi thẳng trong bản này và có điểm chỉ của hai vị cao tuổi đại diện trong Tộc.
3. Tất cả Trưởng các đại diện  Phái – Chi đều phải ký vào Bản Tộc Ước này.

             Hoa Lư – Gia Hưng - Gia Viễn – Ninh Bình, ngày … tháng … năm 20…. ( nhằm ngày …… tháng ….. năm ………… Âm Lịch)


                            TM. BCH Hội Đồng Gia Tộc Nguyễn Hữu




------------------------------------------------------------------------

Phần ký chấp thuận thực thi theo Tộc Ước






PHẦN PHỤ LỤC



1.    Bản Kế hoạch bước đầu thực hiện.

2.    Các tờ mẫu :
* Bìa Gia Phả Tộc Nguyễn Hữu
* Bằng ghi công đức.
* Bìa Sổ vàng công đức.
* Bìa Sổ vàng truyền thống.
* Giấy khen khuyến học.
* Bằng danh dự.
* Dấu ấn triện “Nguyễn Hữu Gia Tộc” & thẻ đeo thành viên HĐGT
* Mẫu giấy mời họp toàn tộc (2 mẫu)

3.    Ý nghĩa và nghi thức cúng bái.

--------------------------------

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2011

Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!

Lời "kêu cứu" từ hậu duệ của vua Minh Mạng
Lăng Minh Mạng (còn gọi là Hiếu Lăng) rộng 18ha do vua Thiệu Trị - con trưởng vua Minh Mạng xây dựng từ năm 1840 đến 1843 và tu bổ năm 2000 bằng kinh phí nhà nước, nằm trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới ngày 11/12/1993.
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!
Vai diễn Hoàng hậu và thái giám thực hiện ngay tại nơi thờ tự của vua Minh Mạng đã được chuyển đi chỗ khác
Chiều 12/4, ông Tôn Thất Viễn Bào (72 tuổi), hậu duệ thứ 4 của vua Minh Mạng, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc tại Huế bức xúc kể: “Sáng 11/4, gần 250 con cháu hậu duệ vua nhà Nguyễn từ khắp trong và ngoài nước về lăng Minh Mạng dâng hương nhân dịp tiết thanh minh hàng năm. Khi đoàn đến chánh điện thờ vua, hoàng hậu và dòng tộc thì chẳng thấy Long vị, bàn thờ, sập thờ… ở đâu. Một đoàn làm phim đang biến nơi đây thành trường quay rất lộn xộn”.
Chiều 12/4, chúng tôi cùng một số hậu duệ đời thứ 4, 5, 6… của vua Minh Mạng đến tham quan lăng thì cảnh tượng đúng như lời kêu cứu của Hội đồng Nguyễn Phước tộc tại Huế.
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ! 
Sùng Ân Điện (nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu) thành trường quay phim.
Sùng Ân Điện (nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu Hồ Thị Hoa) mặc dù là nơi cấm quay phim, chụp hình nhưng đoàn làm phim với hơn chục máy quay, máy ảnh hoạt động hết công suất. Giờ nghỉ giải lao, diễn viên đoàn làm phim thì tha hồ chụp ảnh ngay chính điện thờ vua. Trong khi du khách đã bỏ một khoản tiền ra mua vé vào tham quan đưa máy ảnh ra chụp thì những người của đoàn làm phim nhắc nhở, không cho chụp.
Khoảng thời gian thực hiện một số cảnh quay tại lăng từ cuối tháng 3 đến nay, toàn bộ chánh điện thờ vua và hoàng tộc trở thành đại công trường để quay phim với ngổn ngang dây điện, cột đèn, bàn ghế, áo quần, tư trang… của đoàn làm phim. Hai bộ sập thờ được khênh đi chỗ khác để dựng lên một phòng ngủ của vua và hoàng hậu trong một cảnh phim.
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!
Long vị vua, án thờ, sập thờ… bị dời đến một góc tường, nhưng không thấy Long vị vua Minh Mạng ở đây.
Du khách trong và ngoài nước bỏ tiền ra để thưởng ngoạn di tích, chiêm ngưỡng vị vua cùng dòng tộc chứ không phải xem phim trường ngay trên điện thờ vua linh thiêng này. Trên khuôn mặt nhiều du khách nước ngoài tỏ ra tức giận rồi bỏ đi vì không được thấy di tích của vua và không được chụp ảnh.
Ông Nguyễn Phước Vĩnh Tùng (75 tuổi, hậu duệ đời thứ 5 vua Minh Mạng) tâm sự: “Từ năm 1950 đến nay, năm nào tui cũng từ TP.HCM về Huế, dâng hương tổ tiên ở đây nhưng chưa lần nào thấy bị xúc phạm nghiêm trọng như vậy. Toàn bộ án thờ của vua và dòng tộc bị dồn vào một góc tường của chánh điện nhưng chúng tôi tìm mãi vẫn không thấy Long vị vua ở đâu, nếu bị thất lạc hay hư hỏng thì ai chịu trách nhiệm?”.
Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc là con cháu, hậu duệ của các vua triều Nguyễn, có nhiệm vụ thờ cúng vua cùng dòng tộc, tổ chức lễ kỵ, góp phần trùng tu, bảo vệ các lăng tẩm vua Nguyễn. Hàng năm cứ vào tiết thanh minh, Hội đồng phải xin phép Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đến dâng hương tại lăng. Khi đoàn làm phim tiến hành quay tại lăng Minh Mạng, đã không có ai bàn bạc, hỏi ý kiến của hội đồng này.
Đoàn làm phim chỉ biết được việc của mình?
Bộ phim truyền hình 30 tập Thái sư Trần Thủ Độ (tên cũ là Trần Thủ Độ và người tình) - Hãng phim truyện I được nhà nước đặt hàng với kinh phí 53 tỷ đồng, đạo diễn Đào Duy Phúc, khi thực hiện một số cảnh quay ở Huế đã dùng các di tích, lăng tẩm triều Nguyễn làm bối cảnh cho phim.
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!
Phòng ngủ dành cho vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu trong phim được dựng lên nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu Hồ Thị Hoa
Nửa tháng nay, toàn bộ Long vị vua, bàn thờ Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, cùng con, cháu vua đã bị dẹp bỏ khỏi điện thờ chính để làm bối cảnh của trường quay. Hỏi nhiều người trong đoàn làm phim là có di dời án thờ, sắp xếp lại chánh điện hay không thì ai cũng trả lời là có. Nhưng khi hỏi đạo diễn Đào Duy Phúc về việc làm như vậy đúng không thì được trả lời: “Tôi đang bận quay phim, xin các anh đợi”.
Cảnh quay trong phim Trần Thủ Độ thực hiện tại lăng Minh Mạng tái hiện lịch sử năm 1210 khi Trần Thủ Độ phò Thái tử Sảm lên ngôi vua (tức là Lý Huệ Tông). Cảnh này thuộc về đời Lý nhưng lại thực hiện trong di tích, lăng tẩm của một ông vua nhà Nguyễn thì không hợp lý xét về góc độ lịch sử (cách nhau gần 600 năm) cũng như kiến trúc của 2 triều đại hoàn toàn khác nhau.
Xét về mặt con người, Minh Mạng là một ông vua quyết đoán, năng động, có nhiều công lao trong cải cách nội trị đến ngoại giao, lập ra Nội các và Viện cơ mật ở Kinh thành Huế, bỏ việc lập các dinh để lập tỉnh (cả nước có 31 tỉnh).
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!
Các “cung nữ” thả sức chụp ảnh trong giờ giải lao ngay chỗ thờ vua Minh Mạng.
Quân đội dưới triều vua này rất hùng mạnh, được tổ chức chuyên nghiệp, dẹp trừ nhiều cuộc nội loạn. Vua tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Tử; quan tâm đến việc học, thi cử khi mở Quốc Tử Giám. Về đối ngoại, chủ trương mở rộng bờ cõi khi đặt tên nước là Đại Nam vào năm 1838. Trần Thủ Độ mặc dù có công phò vua Lý Huệ Tông nhưng sau đó phế truất vua này, dàn xếp chính trị đưa Trần Cảnh lên làm vua, lập ra nhà Trần.
Nếu như tất cả các đoàn làm phim lịch sử về Huế đóng phim mà dùng các lăng tẩm, di tích làm cảnh quay thì sự tôn nghiêm, linh thiêng còn ở chỗ nào nữa? Những ông vua, chúa hay các bậc tiền nhân và những người đang sống hôm nay có lẽ không muốn bị đối xử như vậy.
Cơ quan chức năng: Phim đã được Bộ duyệt quay rồi
Nhiều du khách phàn nàn về cách xử sự của đoàn làm phim cũng như cơ quan chức năng đã cấp giấy phép để đoàn thực hiện cảnh quay tại lăng Minh Mạng. Ông Nguyễn Phước Bảo Hùng (51 tuổi, ở TP.Huế) bức xúc: “Huế là đất thần kinh – đất vua, có truyền thống văn hoá, coi trọng tâm linh nhưng lại xảy ra sự việc như vậy đúng là động trời”…
Nơi thờ vua Nguyễn thành trường quay phim Trần Thủ Độ!
Phim thể hiện bối cảnh lịch sử đời Lý nhưng thực hiện tại lăng vua nhà Nguyễn.
Khi chúng tôi hỏi vấn đề toàn bộ Long vị, án thờ tại lăng Minh Mạng bị đoàn phim di dời để làm trường quay thì các cơ quan chức năng vẫn cho rằng đó là phim của Nhà nước đặt hàng, được cấp phép.
Ông Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô cho biết: “Phim này được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt thực hiện cảnh quay. Việc đoàn làm phim thực hiện tại lăng Minh Mạng và có di dời hiện vật như vậy nhưng họ sẽ trả lại nguyên trạng như ban đầu. Nếu quay ở lăng khác cũng làm như vậy thôi. Không lẽ cấm không cho họ làm?”. Ông Ngô Hoà, Phó chủ tịch UBND tỉnh cũng trả lời là đoàn phim sẽ trả lại nguyên trạng như ban đầu (?)
Nửa tháng hoạt động của đoàn làm phim có lẽ đã để lại rất nhiều bất bình, phản cảm trong con mắt nhiều du khách trước một di tích nằm trong quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới và thu hút khách du lịch đứng thứ 2 sau lăng Tự Đức!
............................................................................................................................



Những gì vừa công nhận mới chỉ là một phần của Mộc bản

NDĐT- Việc UNESCO công nhận hệ thống di sản Mộc bản triều Nguyễn và là “Tư liệu di sản” trong Chương trình "Ký ức của Thế giới" (MOW) là một tin rất vui và là hành động kịp thời. Tuy nhiên, những gì vừa mới được công nhận mới chỉ là một phần của “Ký ức của thế giới”, và phần ký ức này lại nằm ngoài Huế - “cội nguồn” của Mộc bản.


Một sắc thái văn hóa độc đáo
Mộc bản là bản gỗ (gỗ thị, lê, táo hoặc nha đồng - những loại gỗ mịn, trắng), khắc thủ công chữ Hán hoặc chữ Nôm (khắc ngược) để in ra thành những trang sách. Dưới triều Nguyễn, có hàng chục ngàn Mộc bản, chứa đựng nội dung của hàng trăm cuốn sách với nhiều chủ đề khác nhau như: Lịch sử, địa lý, chính trị - xã hội, quân sự, pháp chế, giáo dục, văn thơ...
Tài liệu mộc bản có nhiều tác phẩm quý hiếm và lớn nhất dưới thời quân chủ như: Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.... Ngoài ra còn có các tác phẩm Ngự chế văn, Ngự chế thi do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức...sáng tác.
Việc ấn hành được quy định nghiêm ngặt (hoàng đế ban dụ cho phép biên soạn và giám sát, chỉnh lý...). Tuy nhiên, những bộ sách ngoài chính văn, chính sử như thơ văn của các ông hoàng thì chỉ cần xin giấy phép của vua là được khắc in.
Mộc bản là độc bản, là bản gốc để in thành sách. Bởi vậy đây là nguồn sử liệu tin cậy để khảo cứu, đối chiếu, đính chính các nguồn sử liệu liên quan. Ngoài giá trị về mặt sử liệu còn có giá trị về nghệ thuật, kỹ thuật chế tác.
Mộc bản là một sắc thái văn hóa độc đáo của Việt Nam dưới thời Nguyễn. Ngoài việc biểu dương và phổ biến các công trình văn hóa, học thuật của Việt Nam như đã dẫn, Mộc bản còn cho chúng ta biết những chuyện thú vị ngoài sách.
Ví dụ bộ sử “Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên), phần ghi chép về các thời Thành Thái, Duy Tân và Khải Định không được khắc Mộc bản để in (với lý do triều đình không có tiền) mà chỉ được chép tay lại thành 6 bản, và hiện chỉ còn một bản đầy đủ được lưu giữ tại Pháp.
Hoặc bộ “Đại Nam nhất thống chí” gồm hai bộ. Một bộ được khắc Mộc bản từ thời Tự Đức nhưng chưa kịp in thành sách thì bị ngưng lại do sự kiện kinh đô thất thủ. Đến thời Duy Tân, “Đại Nam nhất thống chí” lại được khắc Mộc bản để in, nhưng lại chỉ khắc chính thức các tỉnh thuộc Trung Kỳ, do lúc đó Nam Kỳ là thuộc địa và Bắc Kỳ thuộc xứ bảo hộ của Pháp.
Không chỉ có Mộc bản cung đình
Tháng 7 vừa qua, Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.555 tấm là những ghi chép chính văn và chính sử, cũng như các pho sách cổ do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ 1802 - 1945, theo công bố của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia đã được đưa vào danh mục “di sản tư liệu” thuộc chương trình “Ký ức của Thế giới” (MOW) của UNESCO.
Theo chúng tôi, những gì UNESCO vừa công nhận mới chỉ là một phần của “Ký ức của Thế giới”, và phần ký ức này lại nằm ngoài Huế - hiện phần lớn Mộc bản đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4 ở Đà Lạt và một phần ở Trung tâm 1 của Hà Nội. Nó chưa phản ánh hết và đầy đủ diện mạo của loại hình văn hóa độc đáo này.
Ở Huế và ngoài Huế hiện còn có một khối lượng lớn Mộc bản là thơ văn của các ông hoàng như Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương và các nho sĩ (hầu hết là quan lại) nổi tiếng lúc bấy giờ, ví dụ bản khắc gỗ truyện Kiều của Nguyễn Du. Ở Huế hiện còn có một khối lượng Mộc bản đồ sộ là kinh sách, hiện được lưu giữ rải rác ở các chùa, mà nhiều nhất là chùa Từ Đàm.
Về mặt số lượng đã công bố, theo ông Nguyễn Phước Hải Trung – Giám đốc Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế, con số 34.555 tấm Mộc bản (tương đương 152 đầu sách) được UNESCO công nhận là một con số thiếu toàn diện. Bởi nhìn lại lịch sử, bởi chỉ tính riêng số sách về lĩnh vực sử học của tập thể tác giả (Quốc sử quán, Hàn lâm viện, Nội các triều Nguyễn) và các tác giả ( Thiệu Trị, Tự Đức...) được biên soạn và in ấn thì cũng đến trên 1.200 quyển với trên 65.000 trang in, tương đương 65.000 Mộc bản. Đó là chưa tính tới các lĩnh vực văn học, địa lý, luật, lịch pháp, thiên văn...
Tương tự, riêng Tân thư viện (1909, thuộc Quốc Tử giám, sau này đổi tên thành Thư viện Bảo Đại), đến năm 1914, sử sách cũng đã ghi nhận ở đây đã lưu trữ 44.570 bản sách của trên 2.600 bộ sách khác nhau.
Và sức lan tỏa của Mộc bản.
Ít người biết, ngoài Mộc bản (âm bản) là những bản khắc gỗ, ở Huế còn có một loại hình Mộc bản dương (dương bản) để xem, đọc, là những tranh vẽ, thơ văn...được trang trí theo lối “nhất thi nhất họa” trên các di tích Huế, mà nhiều nhất là ở điện Thái Hòa.
Theo ông Nguyễn Phước Hải Trung, người đã làm luận văn thạc sĩ ngôn ngữ về thơ chữ Hán trên điện Thái Hòa thì dương bản xuất phát từ Mộc bản, chính là sự lan tỏa để tạo nên những cái mới và làm nên sự độc đáo riêng có của Mộc bản triều Nguyễn.
Ông dẫn chứng: Phần lớn những dương bản thơ văn được khắc trang trí trên điện Thái Hòa và các di tích khác của triều Nguyễn đều lấy từ thơ văn của các vua triều Nguyễn đã được khắc Mộc bản và in thành sách trước đó. Đặc biệt, Mộc bản dương trên điện Thái Hòa được thể hiện bằng chữ Hán rất phong phú với các kiểu chữ: Chân, Thảo, Triện, Lệ...
Ngoài thơ văn trên các di tích, còn có một kiểu “lan tỏa” khác của Mộc bản độc đáo hơn, là các bức tranh và họa tiết, mà các bản khắc tranh và họa tiết của Bộ Công in trong bộ sách “Ngự đề danh thắng đô hội thi tập” của vua Thiệu Trị là một ví dụ.
Năm 1843, vua Thiệu Trị trong lúc tuần du, thấy nhiều cảnh đẹp nên đã vịnh thơ xếp hạng gọi là “Thần kinh nhị thập cảnh” (12 cảnh đẹp của đất Thần kinh), gồm bài chủ “Vĩnh Thiệu Phương Văn” và những bài con kèm theo. Năm 1844, Bộ công vẽ tranh minh họa tập thơ và vua Thiệu Trị cho khắc Mộc bản. Sau khi thấy bản khắc Mộc bản quá đẹp, vua lại sai đại thần mang những mộc bản qua Trung Quốc để làm thành những bức tranh gương ký kiểu.
“Dương bản xuất phát từ mộc bản khắc trên những di tích Huế là một biểu tượng thẩm mỹ độc đáo của triều Nguyễn mà các triều đại trước của Việt Nam và các nước cùng chung hệ văn hóa như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản...không hề có”. - Ông Nguyễn Phước Hải Trung
Một tấm mộc bản triều Nguyễn đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4
Một bản in từ Mộc bản, hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4
Ảnh: Khắc Dũng

..............................................................



Cháu nội của vua

Ở một nơi heo hút, trong căn nhà tranh vách lá có một vị hoàng thân. Đó là ông Nguyễn Phước Bảo Tài, cháu nội vua Thành Thái


Tôi gặp Nguyễn Phước Bảo Tài khi ông đang ngồi ăn chung một dĩa cơm với vợ trong quán nhỏ đối diện chợ An Bình, quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ. Có lẽ, trong số những hậu duệ của vị vua yêu nước Thành Thái, người cháu nội Bảo Tài là nghèo khó nhất. Hằng ngày, ông phải chạy xe ôm, còn vợ đi bán vé số để mưu sinh.


Ba đời khổ nhọc

Cách nay khoảng 6 năm, ông Bảo Tài cùng vợ là bà Nguyễn Bích Thủy rời ngôi nhà có đến 3 đời họ Nguyễn Phước cùng chung sống trong một con hẻm nhỏ trên đường Phan Đình Phùng, quận Ninh Kiều, về quê vợ ở xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền – TP Cần Thơ mượn đất cất nhà ở tạm đến giờ.


Căn nhà tranh vách lá của vị hoàng thân này rộng chừng 20 m2, nằm khuất trong một xóm nghèo heo hút. Trong nhà không có gì đáng giá, ngoài một số kỷ vật của gia chủ. Trong đó, có cả cặp nạng gỗ mà Bảo Tài đã từng sử dụng khi ông bị tai nạn nghề nghiệp gãy chân hơn một năm trước.

Kệ thờ được chắp vá từ nhiều mảnh gỗ vụn đặt trang trọng hai bức ảnh vua Thành Thái lúc còn trên ngôi và khi bị đày ở đảo Réunion bên cạnh ảnh hoàng phi Chí Lạc, phía dưới là ảnh ông Nguyễn Phước Vĩnh Giu – một trong 9 người con của vua Thành Thái và hoàng phi Chí Lạc.


Theo một số tài liệu về dòng họ Nguyễn Phước ở Cần Thơ, sau khi trả tự do cho gia đình cựu hoàng Thành Thái trở về nước, chính quyền bảo hộ đã dùng nhiều thủ đoạn để chia cách mỗi người một phương. Năm 1949, hoàng tử Vĩnh Giu bị đưa xuống Cần Thơ để tham gia đội cầu đường thuộc Ty Giao thông Công chánh. Năm 1951, ông kết hôn với bà Lý Ngọc Hóa, người quê gốc Cần Thơ và sinh được 7 người con, trong đó có Bảo Tài.


Để có tiền nuôi con, ngoài giờ làm việc, hằng đêm ông Vĩnh Giu còn đi làm nhạc công cho các quán bar trong TP. Chính quyền bảo hộ vẫn luôn tìm cách gây khó khăn nên các con ông không ai được học hành đến nơi đến chốn. Năm 1975, ông Vĩnh Giu thôi làm đốc công ở Ty Giao thông Công chánh, đưa gia đình về sống nương nhờ nhà mẹ vợ trong một con hẻm trên đường Phan Đình Phùng. Tại đây, ông Vĩnh Giu làm nghề sửa xe đạp để mưu sinh.


Vua Thành Thái, hoàng phi Chí Lạc và hoàng tử Vĩnh Giu được thờ phụng trong nhà ông Nguyễn Phước Bảo Tài


Hoàng thân Bảo Tài hồi tưởng: “Trong nhà khi ấy, có đến gần 20 người nhưng chỉ anh hai Bảo Bồi là có việc làm ổn định, những người con trai còn lại đều chạy xe ôm hoặc làm thuê. Không có tiền mua xe, nhiều người phải thuê để chạy. Năm 2007, cha tôi mất, 2 năm sau thì anh Bảo Bồi cũng theo ông”.

 Đến nay, những người trong gia đình Nguyễn Phước ở Cần Thơ đã dần vượt qua được khó khăn nhờ con cháu họ lớn lên có việc làm ổn định, riêng ông Bảo Tài hằng ngày vẫn phải kiếm sống bên chiếc xe ôm. Chiếc xe tuy cũ nhưng là phương tiện mưu sinh duy nhất của ông. Đó cũng là quà tặng của người đi cùng đoàn với nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong chuyến về thăm ông Vĩnh Giu cách nay hơn 5 năm.


 Buồn vì bệnh tật của con

 Hoàng thân Bảo Tài sinh năm 1964, đến năm 2004 mới lấy vợ và sinh được bé gái Nguyễn Phước Thanh Tuyền. Thanh Tuyền nay 4 tuổi, có khuôn mặt thật đẹp nhưng bị bệnh tật từ khi mới lọt lòng. Bảo Tài nói đó là nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời ông. Giờ ông cũng không hiểu chính xác được căn bệnh của con mình, chỉ nghe bác sĩ bảo là suy não.


 Thanh Tuyền dường như thiếu khả năng tự tư duy và đi lại, thỉnh thoảng bé lại bị co giật, té ngửa. Ông Bảo Tài cho biết lúc chào đời, bé chỉ cân nặng 0,9 kg. Bác sĩ khuyên phải chăm sóc bằng chế độ dinh dưỡng đặc biệt mới hy vọng bé phát triển bình thường nhưng vợ chồng ông làm đầu tắt mặt tối mà chỉ đủ mua cho con được 4 hộp sữa giấy loại rẻ tiền. Có lần nghe người mách về một loại sữa bột bổ não gì đó, Bảo Tài cũng muốn cho con dùng thử nhưng khi đến tiệm, ông đành tiu nghỉu ra về vì không đủ tiền mua.


 Bà Nguyễn Bích Thủy ôm Thanh Tuyền vào lòng, nghẹn ngào: “Bận đi làm nên chúng tôi phải gửi cháu cả ngày cho người dì giữ hộ. Cháu vẫn nhận thức được nhưng chậm, đôi khi muốn nói vài từ đơn giản cũng phải suy nghĩ hồi lâu mới cất tiếng được. Do không thể chơi đùa nên cháu chỉ thích ngồi xem tivi. Nhưng hơn tháng trước, cháu phát bệnh mà trong nhà không có tiền, nhìn đi nhìn lại chỉ còn chiếc tivi, chồng tôi đành mang đi cầm lấy 200.000 đồng để mua thuốc. Người ta biết hoàn cảnh mới đồng ý cầm chứ chiếc tivi ấy có bán cũng chẳng được giá đó”.


Vợ chồng ông Nguyễn Phước Bảo Tài trên đường ra chợ chạy xe ôm và bán vé số


Một lần nhìn con bị bệnh tật hành hạ, ông Bảo Tài không chịu nổi nên đã tìm đến Sở LĐ-TB-XH TP Cần Thơ xin được giúp đỡ. Sau đó, UBND xã Nhơn Nghĩa mời ông lên gặp và đề nghị gia đình chọn một trong 3 phương án: Đưa Thanh Tuyền đi tuyến trên điều trị, cho bác sĩ đến tận nhà chữa bệnh cho cháu hoặc trợ cấp tiền hằng tháng.


 Cân nhắc thật kỹ, cuối cùng ông Bảo Tài đành chọn phương án nhận tiền trợ cấp để mua thêm thuốc men và sữa cho con nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy đâu. Ông rầu rĩ: “Cách nay hơn một tháng, cán bộ xã đến nói vợ chồng tôi vẫn còn sức lao động, chưa đến mức khó khăn để phải giải quyết trợ cấp cho cháu. Tôi buồn lắm nhưng rồi cũng đành chịu thôi”.


 Sống xứng đáng với tiền nhân

 Tôi thật sự lấy làm lạ với thân thế Nguyễn Phước Bảo Tài, không chỉ do ông quá nghèo khó phải chạy xe ôm mưu sinh mà còn vì ít người biết đến người cháu nội của vua Thành Thái. Thậm chí, khi về tận nơi Bảo Tài đang sinh sống, tôi hỏi thăm nhiều người mà vẫn không ai biết đến tên ông. Mãi đến khi tôi hỏi về “chồng của bà Nguyễn Bích Thủy”, có người mới nhớ ra “ông già chạy xe ôm có khuôn mặt hơi đạo mạo” ấy.

 Bảo Tài kể có lần một tờ báo đăng tin ông là cháu nội vua Thành Thái, khi dừng xe bên lề đường đón khách, nhiều người qua lại nhìn ông lom lom dò xét rồi xầm xì: “Ông này mà có dính dáng tới vua chúa à? Cháu vua sao khổ dữ vậy?”… Ông Bảo Tài chưa bao giờ nhắc chuyện thân thế hoàng tộc hoặc than vãn với ai về cuộc sống nghèo khó của mình. Bởi, ông nghĩ chính cha mình vốn là hoàng tử mà cả đời có bao giờ được sống trong giàu sang nhung lụa đâu? Thậm chí, cả vua Thành Thái cũng chấp nhận rời bỏ tòa lâu đài trên đảo Réunion để ra ngoài sống đời lao động.

 Ông Bảo Tài tâm sự: “Tôi nghĩ điều quan trọng mình là ai chứ không phải xuất thân như thế nào. Tuy nhiên, trong thâm tâm, tôi tự hào về các bậc tiền nhân của mình và tự nhủ với lòng phải sống sao cho xứng đáng với họ. Cha cũng như ông nội tôi và bác là vua Duy Tân đều là những người bất khuất trước kẻ thù xâm lược và không màng danh lợi”.

 Bảo Tài còn bộc bạch rằng có lẽ ông nghèo vì không bắt kịp thời cuộc nhưng lịch sử thì vẫn sẽ còn ghi mãi những cái tên Thành Thái, Duy Tân… Dứt câu chuyện, ông khoác vội chiếc áo gió cũ sờn rồi lên chiếc xe máy đã bạc phếch màu sơn hòa vào dòng người giữa phố thị.



Vị vua trên đảo Réunion

Thành Thái là vị vua thứ 10 của triều Nguyễn, tại vị từ năm 1889 đến năm 1907. Do chống Pháp nên ông bị phế truất và bị đưa đi đày trên đảo Réunion thuộc Pháp ở châu Phi từ năm 1916 đến năm 1947. Đi cùng vua Thành Thái khi đó còn có con trai là vua Duy Tân và các hoàng phi Giai Triệu, Chí Lạc.


Hoàng phi Chí Lạc, nhũ danh Hồ Thị Mừng, đã hạ sinh cho Thành Thái 9 người con. Những hoàng tử, công chúa ấy chưa từng có diễm phúc được sống trong nhung lụa.


Ở nơi đất khách quê người, bà Chí Lạc luôn hướng những người con của mình về nguồn cội, bằng cách dạy tiếng Việt và cả những nhạc cụ dân tộc cho họ.


Dù cuộc sống rất khó khăn, vua Thành Thái vẫn giáo dục con cái một cách nghiêm khắc. Ông phân công cho mỗi người con đảm nhận từng công việc trong gia đình.


Các công chúa Lương Mỹ, Lương Hảo phụ mẹ việc bếp núc; hoàng tử Vĩnh Quỳnh lo vườn tược, Vĩnh Khôi làm cận vệ cho cha, Vĩnh Giu đảm nhận việc trầu cau và lo bữa điểm tâm, còn Lương Thâm, Vĩnh Cầu, Lương Cầm phụ dọn dẹp nhà cửa…


Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trước áp lực của dư luận, đặc biệt là sự vận động không mệt mỏi của vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường (con gái và con rể vua Thành Thái), thực dân Pháp phải trả tự do cho cựu hoàng Thành Thái. Đầu tháng 5-1947, toàn bộ gia quyến của cựu hoàng  đã trở về VN.

TM/ HỘI ĐỒNG DÒNG TỘC NGUYỄN BẶC TOÀN QUỐC

Trong suốt chặng đường xây dựng Cổng Thông Tin Điện Tử. T/M Các Ban thuộc HĐDT NGUYỄN BẶC TQ. Xin cảm ơn các Quý vị là Nội Tộc Tông Thân trong và ngoài nước nói chung đã luôn mạnh dạn cống hiến rất nhiều những đóng góp vật chất, xây dựng ý kiến nhằm: Tôn Vinh Dòng Họ Nguyễn Đại Tông, Chắp Nối Gia Phổ, Trùng Tu Lăng Mộ và Từ Đường..., để cùng nhau tề tựu tại Nhà Thờ Đức Thái Thủy Tổ Định Quốc Công Nguyễn Bặc "Khởi Nguyên Đường" những ngày 14 - 15 tháng 10 Âm Lịch hàng năm để trị ân với Tổ Tiên.
Một lần nữa T/M Các Ban thuộc HĐDT NGUYỄN BẶC TQ xin gửi tất cả những lời chào và chúc tốt đẹp nhất đến các thành viên hiện nay đang sống và làm việc tại: Việt nam, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Úc, Canada, Latvia, Balan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Brazin, Trung Quốc, Hungari, Rumani, Ý, Na uy, Lào, Thụy Sỹ, Thái Lan, Singapore, cambodia,...vv, đã ghé thăm và có những ý kiến đóng góp rất thiết thực trên trang thông tin điện tử "Khoinguyenduong, thongtintocnguyen, honguyenvietnam, nguyenhuutocpha, khoinghiaduong, phahe" trong suốt thời gian qua. Mong các quý vị, các quý thàn viên trong Họ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ và đóng góp. Xin chân thành cảm ơn!

- Mọi ý kiến đóng góp nhằm xây dựng việc chắp nối Gia Phổ Dòng Tộc Định Quốc Công Nguyễn Bặc xin liên hệ trực tiếp các Thành Viên Thường Trực Hội Đồng Dòng Tộc Nguyễn Bặc TQ - Ban Nghiên Cứu và Thực Hành Gia Phổ:

1. NGUYỄN PHÚC HẬU - PCT HĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TBNC&THGP
ĐC: 303, Nhà H3A, KTT Bộ Công Nghiệp Nhẹ, đường Lê Gia Định, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội - Điện thoại: 0903 215 255

2. NGUYỄN CHƯƠNG THÂU - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP
ĐC: 7/180 phố Thái Hà, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội - 043 8534 334
3. NGUYỄN THÀNH CÔNG - PCT HĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP + TVBKT
ĐC: đội 5, xã Xuân Thượng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định - 0943 056 922
4. NGUYỄN BẾ THÀNH - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP
ĐC: D12, phòng 402 KTT Quân Đội Nam Đồng, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội - 09032 262 457

5. NGUYỄN HUY HIỆP - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP
ĐC: thôn 9, xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh - 0934 404 218

6. NGUYỄN NGỌC TUYẾN - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP
ĐC: xóm 14, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định - chưa có

7. NGUYỄN HỮU MẠC, TỨC XUÂN THOẠI - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVBNC&THGP
ĐC: đường 7, thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa - 0166 579 8983

8. NGUYỄN HỮU NAM, TỨC BẢO NAM - TVHĐDT NGUYỄN BẶC TQ + TVTTBNC&THGP + BTT&ĐỐI NGOẠI
ĐC: 1A Đồng Khởi, phường 4, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh Tel: 0922 366 268
Xin tiếp nhận ý kiến đóng góp qua Email: khoinguyenduong@gmail.com

BÀI ĐƯỢC QUAN TÂM NHIỀU NHẤT