Cửu: Chín, thứ chín. Huyền: ý nói đời, thế hệ. Thất: bảy.
Thất Tổ là bảy ông Tổ của dòng họ nhà mình.
Thờ Cửu Huyền thì mình là cháu chín đời thờ Tổ Tiên chín đời trước của dòng họ nhà mình.
Tại sao chỉ thờ tới Thất Tổ? mà không thờ tới Bát Tổ?
Tại sao không nói thờ Cửu Tổ mà nói thờ Cửu Huyền?
Nho giáo thời xưa qui định cách thờ Tổ Tiên có thứ bực từ dân cho đến vua như sau:
- Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới Nhứt Tổ (Ông Nội).
- Các quan Ðại Phu được thờ tới Tam Tổ.
- Các vua chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ.
- Hoàng Ðế (Thiên tử) thì thờ tới Thất Tổ.
Theo qui định nầy, chúng ta không được thờ tới Thất Tổ (vì thờ Thất Tổ chỉ dành cho vua), nhưng muốn thờ Tổ Tiên những bực cao hơn nữa thì chúng ta nói là thờ Cửu Huyền, tránh dùng chữ Thất Tổ mà bị tội phạm thượng. Ðó là nói theo thời có vua chúa thuở xưa.
Thờ cúng Cửu Huyền Thất Tổ là tỏ lòng kính trọng các bực tiền nhân Tổ tiên chúng ta trong buổi sanh tiền đã dày công giáo hóa, chỉ bảo công việc làm ăn, dạy bảo cử chỉ hành động sao cho được tốt đẹp, hợp đạo lý, để phát huy sự nghiệp của Tổ tiên và làm rạng rỡ Tổ tiên.
I. Giải thích Cửu Huyền Thất Tổ chung trong một hệ thống:
Sau đây là Bảng Hệ thống Cửu Huyền Thất Tổ:
Hệ Thống CỬU HUYỀN: | |||||
┌ │ │ │ │ │ │ │ │ └ | 1. Ông Sơ của Ông Sơ | (Thỉ Tổ) | Thất tổ | ┐ │ │ │ │ │ │ ┘ | |
2. Ông Cố của Ông Sơ | (Cao Cao Tổ) | Lục tổ | |||
3. Ông Nội của Ông Sơ | (Viễn Tổ) | Ngũ tổ | |||
4. Cha của Ông Sơ | (Tiên Tổ) | Tứ tổ | THẤT TỔ | ||
5. Ông Sơ | (Cao Tổ) | Tam tổ | |||
6. Ông Cố | (Tằng Tổ) | Nhị Tổ | |||
7. Ông Nội | (Nội Tổ) | Nhứt Tổ | |||
8. Cha | (Phụ thân) | ||||
9. Bản thân |
Theo Hệ thống Cửu Huyền Thất Tổ nầy thì:
- Phụ thân (Cha) chưa được liệt vào hàng Thất Tổ, mà Ông Nội (Nội Tổ) mới được liệt vào hàng Thất Tổ.
- Từ Bản thân lên tới Ông Thỉ Tổ (Ông Sơ của Ông Sơ) là chín đời, cho nên mới gọi là thờ Cửu Huyền.
Bảng Hệ thống Cửu Huyền Thất Tổ nầy rất đơn giản và giải thích dễ hiểu hơn tất cả.
II. Giải thích Cửu Huyền Thất Tổ theo hai Hệ thống riêng:
A. Giải thích Thất Tổ theo bản đồ Thất Tổ miếu:
Theo Bản đồ Thất Tổ Miếu, sự giải thích về Thất Tổ có hơi khác: Cha (Phụ thân) được liệt vào hàng Thất Tổ.
Do đó, Bản đồ Thất Tổ miếu thờ bảy vị Tổ sau đây:
7. Thỉ Tổ (Tỷ Khảo) | : | Thất Tổ |
6. Viễn Tổ (Tỷ Khảo) | : | Lục Tổ |
5. Tiên Tổ (Tỷ Khảo) | : | Ngũ Tổ |
4. Cao Tổ (Tỷ Khảo) | : | Tứ Tổ |
3. Tằng Tổ (Tỷ Khảo) | : | Tam Tổ |
2. Nội Tổ (Tỷ Khảo) | : | Nhị Tổ |
1. Phụ thân (Tỷ Khảo) | : | Nhứt Tổ |
(Trên Bản đồ Thất Tổ Miếu, hai chữ: Tỷ Khảo là Ông Bà đã chết)
B. Giải thích Cửu Huyền theo Cửu tộc:
Thờ Cửu Huyền là con cháu đời thứ chín thờ những vị Tổ thuộc chín đời trước mình, tính theo trực hệ.
Cách gọi tên trong Cửu Huyền lấy theo cách gọi tên trong Cửu Tộc thời nhà Hán bên Tàu: Lấy Bản thân làm gốc, lên trên bốn đời, xuống dưới bốn đời.
1. Cao Tổ | : | Ông Sơ. |
2. Tằng Tổ | : | Ông Cố. |
3. Tổ Phụ | : | Ông Nội. |
4. Phụ | : | Cha. |
5. Bản thân. | ||
6. Tử | : | Con trai. |
7. Tôn | : | Cháu nội. |
8. Tằng tôn | : | Chắt (Cháu cố) |
9. Huyền tôn | : | Chít hay Chút (Cháu sơ). |
Ðiều nầy có thể được giải thích bởi nhiều lẽ như sau:
- Vấn đề đặt tên, danh từ: có Bản thân, có ông cha 4 đời trước, có con cháu 4 đời sau, là để gợi lên cho dễ hiểu, dễ phân định, trong đó gồm có người sống (Dương) và người chết (Âm). Gọi như thế để tượng trưng đủ cả Âm Dương.
- Gọi như thế để chỉ 3 đời (Tam thế) nối tiếp nhau: - Ðời quá khứ là các Tổ Tiên, - Ðời hiện tại là mình, - Ðời tương lai là các con cháu của mình.
- Gọi như thế để chỉ rằng có sự luân hồi chuyển kiếp trong dòng họ. Có thể có những vị Tổ của các đời lâu xa trước, nay đầu thai trở lại trong dòng họ mình, làm con cháu mình để thực thi nhân quả; và chính mình đây cũng có thể là một vị Tổ đầu kiếp trở lại.
- Gọi như thế để thể hiện sự vay trả. Bản thân mình đứng giữa, vay lớp trên 4 đời, trả cho lớp dưới 4 đời. Cho nên, công đức hay tội lỗi của mình tạo ra trong kiếp sanh nầy có ảnh hưởng đến Tổ Tiên 4 đời trước mình, và cũng ảnh hưởng đến con cháu 4 đời sau mình.
Phước đức của mình tạo ra, cả Cửu Huyền đều thọ hưởng, tức là 4 đời Tổ có hưởng và con cháu 4 đời sau có hưởng.
Tội lỗi mình gây ra thì Tổ Tiên 4 đời trước mình phải chịu khổ tâm nơi cõi thiêng liêng và nếu trong kiếp sanh nầy mình trả chưa hết, thì con cháu 4 đời sau mình phải gánh trả.
Ðức Chí Tôn có giáng cơ dạy về Cửu Huyền Thất Tổ trong bài Thánh Ngôn sau đây: (Theo Chí Thiện Phan Trung Chẩm, bài nầy do Chí Thiện Nguyễn văn Ninh cầu Ðức Chí Tôn tại Minh Thiện Ðàn, Phú Mỹ, Mỹ Tho)
"Thầy, các con,
Con chưa rõ Cửu Huyền Thất Tổ,
Thầy vui lòng chỉ chỗ chưa rành.
Kể từ phụ mẫu sơ sanh,
Cũng nhờ Tổ đức lập thành chánh chơn.
Thầy vui lòng chỉ chỗ chưa rành.
Kể từ phụ mẫu sơ sanh,
Cũng nhờ Tổ đức lập thành chánh chơn.
Người chưa rõ nguồn cơn trong đó,
Nên dể duôi đành bỏ rã rời.
Từ con lên đó năm đời,
Từ con xuống đó bốn đời chia ra.
Nên dể duôi đành bỏ rã rời.
Từ con lên đó năm đời,
Từ con xuống đó bốn đời chia ra.
Trong số ngũ (5) sớt ra làm chín (9),
Chiết mình con là định trung hòa.
Trước con là gọi mẹ cha,
Sau con kế đó nó là cháu con.
Chiết mình con là định trung hòa.
Trước con là gọi mẹ cha,
Sau con kế đó nó là cháu con.
Tới bực cháu Huyền tôn là chín (9),
Cháu Huyền tôn là chính Cửu Huyền.
Hợp thành số cửu (9) quá nguyên.
Cũng trong Cửu Tộc lưu truyền chẳng sai.
Cháu Huyền tôn là chính Cửu Huyền.
Hợp thành số cửu (9) quá nguyên.
Cũng trong Cửu Tộc lưu truyền chẳng sai.
Ðếm tới chín, bớt hai còn bảy (7),
Là bảy ông thảy thảy kêu chuyền.
Hiệp thành số cửu chi nguyên,
Nên kêu Thất Tổ Hậu Thiên không lìa.
Là bảy ông thảy thảy kêu chuyền.
Hiệp thành số cửu chi nguyên,
Nên kêu Thất Tổ Hậu Thiên không lìa.
Con đứng giữa đặng chia vay trả,
Vay ơn dày thì trả nghĩa sâu.
Tại vầy nên mới lo tu,
Lo tu đặng độ đền bù nghĩa nhơn.
Vay ơn dày thì trả nghĩa sâu.
Tại vầy nên mới lo tu,
Lo tu đặng độ đền bù nghĩa nhơn.
Người có đó nên người hơn thú,
Thú được vầy thú cũng bằng người.
Khuyên con chớ tưởng trò chơi,
Ráng công tu luyện nên người dễ chi!"
Thú được vầy thú cũng bằng người.
Khuyên con chớ tưởng trò chơi,
Ráng công tu luyện nên người dễ chi!"
■ Thuở chưa khai Ðạo, trong một đàn cơ ngày 7-1-1926, Ðức Chí Tôn giáng dạy Bà Cư (tức là Bà Hương Hiếu) phải lo đi phổ độ nhơn sanh vào Ðạo.
"Bà Cư bạch với Thầy rằng:
- Má con mắc ở xa, làm sao con đi độ được.
Thầy:
- Hiếu! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu Huyền Thất Tổ, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn...." (ÐS. I. 36)
■ Trong một đàn cơ có Bát Nương giáng, Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt hỏi Bát Nương:
- Thân phụ và Thân mẫu của qua có được siêu không? Giờ đây ở đâu?
Bát Nương đáp:
- Em chỉ nói bằng thơ, nếu anh giảng trúng thì nói nữa, trật thì lui.
Ngài Thượng Trung Nhựt năn nỉ:
- Nếu qua nói trật thì em thương tình mà chỉ dẫn để qua học hỏi thêm với.
Bát Nương nói:
- Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc, Bá phụ cùng bá mẫu đặng an.
- Như vậy là thân phụ và thân mẫu trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở nơi Cực Lạc.
- Ðúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của anh nên bá phụ và bá mẫu mới được siêu thăng nơi Cực Lạc.
■ Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo ngày 15-10-Canh Dần (1950):
"Bần đạo nói thật, thời buổi nầy, chúng ta không tìm phương giải thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ thì không có thời buổi nào có năng lực độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của mình đặng.
Bởi thế nên toàn thể con cái Ðức Chí Tôn, Nam Nữ cũng vậy, có tấm lòng yêu ái nồng nàn hoài vọng giọt máu, mảnh thân hình, giờ phút nầy là giờ phút nên để trọn tâm cho thanh tịnh đặng cầu nguyện siêu thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ.
Bần đạo dám nói: Giờ phút nầy, mấy người có thể nhỏng nhẻo với Ðức Chí Tôn được. Ngài sẵn sàng để hai chữ ân xá thì mấy người xin cái gì thì ổng cũng cho cái nấy."
(Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu.): | Nguyện cùng Thất Tổ xin thương, Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay. Âm Dương đôi nẻo như nhau, Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét