Nguyễn Hữu Bài (28 tháng 9 năm1863-10 tháng 7 năm 1935) là đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử và sự nghiệp
Ông sinh tại làng Cao Xá, tổng Xuân Hòa, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Khi nhỏ ông theo học tại trường do tu sĩ Pháp giảng dạy.[1]
Vào thời Trung Kỳ bị "bảo hộ", triều đình Huế cần dùng người biết tiếng Pháp để giúp việc tại Nha Thương-bạc Huế, Nguyễn Hữu Bài cùng nhiềutu sĩ khác được trao công việc. Ông là người có tinh thần minh mẫn và biết sử dụng nhân lực.
Năm 1908 Nguyễn Hữu Bài lãnh chứcThượng thư bộ Công. Khi Khâm sứ Pháp Mahé đề nghị đào vàng bạc chôn ở lăng vua Tự Đức, Nguyễn Hữu Bài nhất quyết phản đối. Dân chúng đương thời đặt ra câu tục ngạn:
“Phế vua không Khả, đào mả không Bài”.[2]
Năm 1923, ông được thăng Thái phó, Võ hiển điện Đại học sĩ, Cơ mật Viện trưởng đại thần. Sau đó ông được giữ chức Thượng thư Bộ Lại. Năm 1933, vua Bảo Đại muốn cải cách triều đình bèn cách chức một lúc 5 Thượng thư các Bộ: Lại, Hình, Binh, Lễ, Công vốn chỉ thông nho học, nhường chỗ cho những người thông thạo học vấn phương Tây. Nguyễn Hữu Bài trong số những người bị bãi chức[3].
Sự kiện này khiến nhà thơ Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại bằng bài thơ Đường luật, có chơi chữ tên 5 vị quan các bộ bị bãi chức ở từng câu tương ứng:
- Năm cụ khi không rớt cái ình,
- Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh[4].
- Bài không đeo nữa xin dâng lại[5],
- Đàn chẳng ai nghe khéo dở hình[6].
- Liệu thế không xong binh chẳng được[7],
- Liêm đành chịu đói lễ đừng dinh[8].
- Công danh như thế là hư hỉ,
- Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh[9].
Ngày 10 tháng 7 năm 1935, Nguyễn Hữu Bài đến dự lễ tấn phong của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn. Sau buổi tiệc, ông bị cảm. Khâm sứ Graffeuil, Quản đốc Y tế Bác sĩ Terrisse, Công sứ Quảng Trị Alérini đếnPhước Môn thăm. Khi thấy bệnh tình ông có vẻ trầm trọng, đưa ông vào nhà thương Huế điều trị. Nhưng bệnh trở chứng nặng thêm và lúc 2 giờ sáng ngày 28 tháng 7 năm 1935, ông từ trần tại tư đệ ở Phủ Cam(Huế), hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu ông được đưa ra mộ phần gần Phước Môn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét